Từ khi Nghị Quyết 10 - Bộ Chính trị ban hành, hộ nông dân đợc thừa nhận là
một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong
kinh tế nông thôn, nhờ đó ngời nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu t
vốn để thâm canh tăng vụ, bố trí phân vùng đặc điểm sinh thái và nhu cầu thị trờng,
khai phá thêm hàng ngàn hecta đất mới, ruộng đất đợc sử dụng tốt hơn, vừa đi vào
thâm canh vừa đi vào đổi mới cơ cấu sản xuất, cơ cấu thời vụ. Việc trao quyền tự
chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất để đạt tới mục đích cuối cùng là thu đợc
thành quả lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất
với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế, là đơn vị tích vốn, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
2.4.1. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế
hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế
tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình; tiếp theo là giai đoạn
chuyển biến từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền
kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Kinh tế hộ xs đợc coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trong trong
giai đoạn chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bớc
chuyển từ nền kinh tế hàng hoá nhỏ tạo đà cho bớc chuyển từ kinh tế hàng hoá nhỏ
sang nền kinh tế hàng hoá quy mô lớn. Bớc chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang
kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu cha
trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình
trạng nền kinh tế kém phát triển.
2.4.2. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
Lao động là nguồn lực dồi dào nhất ở nớc ta, là yếu tố năng động và là động
lực quyết định của nền kinh tế quốc dân. Bởi lao động là một trong những yếu tố cơ
bản của lực lợng sản xuất, lao động là nguồn gốc của giá trị thặng d, lao động góp
phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Đặc biệt ở Việt Nam có 80% dân
số sống ở mức thấp mặc dù từ khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá với chủ
trơng mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nớc, trong những năm qua số lợng các
công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài đã tăng lên nhanh chóng, nh-
ng yêu cầu đối với lao động nông thôn của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do
đó rất ít lao động của các doanh nghiệp này đòi hỏi rất cao, do đó rất ít lao động
nông thôn có cơ hội làm việc trong các doanh nghiệp này. Hiện nay, ở nớc ta có
khoảng 12 triệu lao động cha đợc sử dụng và quỹ thời gian của ngời lao động ở
nông thôn cũng cha đợc sử dụng hết. Các yếu tố tự nhiên chỉ mang lại hiệu quả thấp
do có sự mất cân đối giữa lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn chúng ta cần
phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa
qua hàng triệu cơ sở sản xuất đợc tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông
nông nghiệp và nông thôn.
Mặt khác, so cơ tạo hữu cơ thấp, quy mô sản xuất nhỏ, nên mức đầu t cho
một lao động trong kinh tế hộ sản xuất là thấp. Qua khảo sát Việt Nam cho thấy :
- Vốn đầu t cho hộ sản xuất: 1,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu t cho 1 công ty t nhân: 3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
- Vốn đầu t cho kinh tế quốc doanh địa phơng:
3,5 triệu/1lao động/1 việc làm.
(ở đây chỉ tính vốn đầu t tài sản cố định)
Nh vậy, chi phí cho một lao động ở trong hộ sản xuất là ít tốn kém nhất. Điều
này đặt trong hoàn cảnh đất nớc ta còn là một nớc nghèo, vốn tích luỹ ít thì càng
khẳng định hộ sản xuất là một hình thức tổ chức kinh tế phù hợp góp phần giải
quyêts công ăn việc làm , nâng cao thu nhập cho lực lợng lao động trong cả nớc nói
chung và ở nông thôn nói riêng.
2.4.3. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trờng thúc đẩy sản
xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự tự do cạnh tranh
trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết
định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất nh thế nào
để trực tiếp quan hệ với thị trờng. Để đạt đợc điều này các đơn vị kinh tế nói chung
và hộ sản xuất nói riêng đều phải không ngừng nâng cao chất lợng, mẫu mã sản
phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu từ đó mở
rộng sản xuất đôngf thời đạt đợc hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ
dàng đáp ứng đợc những thay đổi của nhu cầu thị trờng mà không sợ ảnh hởng đến
tốn kêms về mặt chi phí. Thêm vào đó lại đợc Đảng và Nhà nớc có các chính sách
khuyến khích, hộ sản xuất không ngừng vơn lên tự khẳng định vị trí trên thị trờng,
tạo điều kiện cho thị trờng phát triển đầy đủ, đa dạng thúc đẩy quá trình sản xuất
hàng hoá. Nh vậy với khả năng nhạy bến trớc nhu cầu thị trờng, hộ sản xuất đã góp
phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trờng tạo ra động lực thúc đẩy
sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
2.4.4. Hộ sản xuất thúc đẩy sự phân công lao động dần tới chuên môn hoá,
tạo khả năng hợp tác lao động trên cơ sở tự nguyện cùng có lợi.
Kinh tế hộ đã từng bớc tạo sự chuyển dịch cơ cấu nông thôn, củng cố quan hệ
sản xuất, tăng cờng lực lợng sản xuất tạo sự phân công lao động trong nông thôn từ
nền sản xuất thuần nông lạc hậu, sản xuất hàng hoá kém phát triển sang sản xuất
hàng hoá phát triển hơn. Tự sự phân công lao động dẫn đến quá trình chuyên môn
hoá trong các hộ sản xuất. Đối với các hộ kinh doanh dịch vụ thì sự chuyên môn hoá
càng cao thì một yêu cầu tất yếu sẽ xuất hiện, đó là sự hợp tác lao động giữa các hộ
sản xuất với nhau. Nếu nh chuyên môn hoá làm cho năng xuất lao động tăng cao,
chất lợng sản phẩm tốt hơn thì hợp tác hoá sẽ làm cho quá trình sản xuất hàng hoá
đợc hoàn thiện đáp ứng đầy đủ nhu cầu của chính các hộ sản xuất và từ đó đáp ứng
nhu cầu thị trờng.
2.5. Chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Nớc ta là một nớc nông nghiệp với 80% dân sso sống ở nông thôn, chúng ta
tiến hành lên CNXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của
nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nớc. Đảng và Nhà nớc ta từng bớc có
những chủ trơng chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển làm
nòng cốt cho phát triển kinh tế hộ nông thôn.
Những ngày đầu cải tạo XHCN, kinh tế hộ cá thể đợc coi là mảnh đất hàng
ngày hàng giờ đẻ ra CNTB. Do đó nó không đợc pháp luật thừa nhận, mà trái lại nó
còn đợc coi là đối tợng cải tạo. Sau đó, chúng ta đã nhận thấy trong điều kiện một n-
ớc nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu trình độ sản xuất thấp, kinh tế hộ cá thể sẽ trở
thành nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 01/1981 Ban Bí th Trung ơng
Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phóng (tự
do hoá) sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự ràng buoọc của
cơ chế tập trung.
Đại hộ Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đờng lối đổi mới, nông nghiệp đợc
xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng
lực lợng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp từ tự túc tự cấp sang sản
xuất hàng hoá theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phấn. Đảng và Nhà nớc đã ban hành những chủ chơng, csc để định h-
ớng nêu trân. Nhờ đó, kinh tế hộ sản xuất dần đợc đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/1988 - Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá
một bớc quan điểm đổi mới của ĐH VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo
điều kiện cho việc hình thành và thức đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây hộ
nông dân đợc thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là
đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Sau Nghị định 10 của Bộ Chính trị rồi đến Nghị định 66 HĐBT của Hội đồng
Bộ trởng ngày 2/3/1992, cùng luật doanh nghiệp t nhân NĐ 29 ngày 19/3/1998, luật
công ty thì hộ sản xuất đã đợc thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng nh các
thành phần kinh tế khác. Điều này đợc khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nớc
CHXHCN Việt Nam năm 1992: "Kinh tế gia đình đợc khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ VII của Đảng chủ trơng phát triển nền kinh tế nớc ta nói
chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/1993, tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá VII), Đảng đã ban hàng nghị định
TW5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với t cách là một chủ thể kinh tế ở
nông thôn đợc luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín
dụng, quyền lựa chọn phơng án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lu
thông tiêu thụ sản phẩm.
Nghị quyết TW5 cùng các văn bản luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo
hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó
phát triển triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trơng CNH - HĐH đất nớc.
Nghị quyết TW6 lần một (khoá VIII) với chủ trơng "tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nớc, nhất là CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn" đã khẳng
định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trớc mắt và
lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với các chính sách về
các thành phần kinh tế, kinh tế hộ đợc khuyến khích phát triển "Kinh tế hộ gia đình
tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất.
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng
là quan hệ vay mợn có hoàn trả và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhợng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi.
Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng nh : tina dụng thơng mại,
tián dụng ngân hàng, tín dụng nhà nớc, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói
chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân khác, đợc thực hiện dới hình
thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn
vốn huy động để cấp tín dụng"
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính. Bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình tín dụng ngân hàng đạt đợc u thế hơn các hình
thức tín dụng khác về khối lợng, thời hạn và phạm vi đầu t. Với đặc điểm tín dụng
bằng tiền, vốn TDNH có khả năng đầu t chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản
xuất và lu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng ngày càng trở thành một
hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ
sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng ngân hàng giữa một bên ngân
hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi đợc thừa nhận là chủ thể trong
mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phơng án sản xuất kinh
doanh hiệu quả. Có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ t cách để
tham gia quan hệ tín dụng vơi ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để đáp
ứng điều kiện vay vốn ngân hàng.
Đối với ngân hàng, t khi chuyển hệ thống ngân hàng hai cấp, hạch toán kinh
tế và kinh doanh độc lập, các ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trờng với mục tiêu an
toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ tớng
Chính phủ, thông t 01 - TD - NH ngày 26/03/1993 của Thống đốc ngân hàng Nhà n-
ớc hớng dẫn thực hiện nghị định 14/CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để
phát triển nông - lâm - ng nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/1999/QĐ - TTg của
Thủ tớng Chính phủ, văn bản số 320/CV - NHNN 14 của Thống đốc NHNN hớng
dẫn thực hiện quy định trên, văn bản số 791/NHN
o
- 06 của Tổng giám đốc
NHN
o
VN về thực hiện một số chính sách ngân hàng phụ vụ phát triển nông nghiệp
nông thôn. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trờng mới cho ngân hàng trong
hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhng
còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trớc tình hình đó,
việc tồn tại một hình thức tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là một yết tố phù
hợp với cung cầu trên thị trờng đợc môi trờng xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò tín dụng ngân hàng với kinh tế hộ sản xuất.
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp khổng thể tiến hành sản xuất
kinh doanh nếu không có vốn. Đặc biệt là trong điều kiện nớc ta hiện nay, thiếu vốn
là hiện tợng thờng xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với
hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở
thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng, các đơn vị kinh tế không những đảm bảo quá trình
sản xuất kinh doanh bình thờng mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản
xuất, tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ
sản xuất.
2.1. Tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá
trình sản xuất liên tục, góp phần đầu t phát triển kinh tế.
Sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả có ý nghĩa quan trọng đối với sự
tăng trởng kinh tế. Nếu nh vốn tham gia vào quá trình đầu t không đem lại hiệu
quả sẽ không có sự tăng trởng thậm chí còn gây sức ép tới lạm phát, tạo ra kết
cục trái ngợc. Thực tế chó thấy, quá trình sản xuất luôn trải qua những giai đoạn
khác nhau, vì vậy các doanh nghiệp nói chung và hộ sản xuất nói riêng có lúc
thừa vốn có lúc thiếu vốn. Việc vay bổ sung vốn lu động sẽ giúp cho quá trình
sản xuất đợc liên tục. Mặt khác, vốn đầu t từ bên ngoài vào còn giúp cho các
thành phần kinh tế tham gia vào quá trình đổi mới công nghệ nhất là trong thời
kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc nh nớc ta hiện nay.
Với đặc trng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất với sự chuyên môn hoá
sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất cha
thu hoạch sản xuất, cha có hàng hoá để bán thì cha có thu nhập, nhng trong khi
đó họ vẫn cần tiềnđể trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi
mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ
sản xuất cần có sự hỗ trợ giúp đỡ của tín dụng ngân hàng để có đủ vốn duy trì
sản xuất đợc liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng
hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác nh lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm
cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế
hợp lý từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng nh tình thần cho mọi ngời.
Nh vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan
trọng đối với việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nớc ta trong giai đoạn
hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực
nông thôn trở thành một thị trờng to lớn của tín dụng ngân hàng. cũng vì thế mà
thị phần của các hộ sản xuất trong d nợ của ngân hàng nông nghiệp càng tăng.
2.2. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trungvốn và tập trung
sản xuất.
Trong cơ chế thị trờng, vai trò tập trung vố tập trung sản xuất của tín
dụng ngân hàng đã đợc thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng phải
đảm bảo đợc độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, có nghĩa là vốn đã đợc bổ sung vào đúng chỗ còn thiếu, giúp
cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn,
đóng góp cho xã hội nhiều sản phẩm với chất lợng cao thúc đẩy quá trình tăng
trởng kinh tế và đồng thời ngân hàng cũng đảm bảo tránh đợc rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu t, ngân hàng
phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động đợc để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy
ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh
vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lu thông. trên cơ sở đó hộ sản
xuất phải tập trng vốn nh thế nào để sản xuất, góp phần tích cực vào quá trình
vận động liên tục của nguồn vốn.
2.3. Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống,
ngành nghề mới giải quyết việc làm cho ngời lao động.
Việt Nam là một nớc nông nghiệp, có nhiều làng nghề truyền thốg, nhng
cha đợc quan tâm đến các ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả
kinh tế đặc biệt trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Phát huy đợc làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy
đợc nội lực của kinh tế hộ. Và tín dụng ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các
ngành nghề mới thu hút đợc số lao động nhàn rỗi giải quyết việc làm cho ngời
lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ng nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thơng nghiệp, du lịch, dịch vụ ở các thành thị
và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề
này phát triển một cách nhịp nhành và đồng bộ. Nh vậy, bằng động tác gián tiếp
ngân hàng đã kích thích các hộ sản xuất nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải
hoạch định kinh doanh để tính toán có hiệu quả, giảm cho phí sản xuất hàng
hoá, góp phần vào phát triển kinh tế hộ nói riêng và nền kinh tế cả nớc nói
chung.
2.4. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị - xã hội:
Tín dụng ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp
phần giải quyết công ăn việc làm cho ngời lao động. Đó là một trong những vấn
đề cấp bách hiện nay ở nớc ta. Có việc làm, ngời lao động có thu nhập sẽ hạn
chế đợc tiêu cực xã hội. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát
triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng
di dân vào thành phố. Thực hiện đợc vấn đề này là do các ngành nghề phát triển
sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế xã hội tăng lên,
khoảng cách giữa nông thôn và thành thi càng nhích lại gần nhau, hạn chế bợt
sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữa vững an ninh chính trị.
Ngoài ra, tín dụng ngân hàng thực hiện tốt các chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nớc, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng ngân
hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh, làm thay đổi bộ mặt nông thôn,
các hộ nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên hộ giàu. Chính vì lẽ đó các tệ nạn
xã hội dần dần đợc xoá bỏ nh: rợu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan, nâng cao trình
độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lợng kinh doanh. Qua đây, chúng ta
thấy đợc vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông
dân nói chung và hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc.
3. Giới thiệu một số chính sách tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Chính sách của chính phủ và ngân hàng nhà nớc đối với tín dụng hộ sản xuất.
Sau hơn 10 năm đổi mới, việc thực thi hàng loạt chủ trơng, chính sách, cơ chế
quản lý của Đảng và Nhà nớc, nền kinh tế nớc ta đã thu đợc những thành tựu trên
nhiều mặt, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn; đất nớc thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế, tạo tiền đề bớc vào giai đoạn phát triển mới; đẩy mạnh công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trờng quốc tế.
Để phục vụ mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chính sách
tín dụng ngân hàng đã và đang thực hiện đổi mới đồng bộ và hữu đáp ứng các yêu
cầu mới, tạo bớc đột phá trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nội
lực và nguồn bên ngoài. Nhìn lại các chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát
triển nông nghiệp - nông thôn có thể nói chính sách tín dụng nhằm tạo động lực thúc
đẩy sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho ngời lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn luôn là một chính sách quan
trong nhất của Đảng và Nhà nớc ta.
Ngày 26 tháng 8 năm 1991 (Ngày đầu của thời kỳ đổi mới) Hội đồng bộ tr-
ởng (nay là Chính phủ) đã có chỉ thị số 202/CT nêu rõ: "Việc cho vay của ngân hàng
để phát triển sản xuất nông, lâm, ng, diêm nghiệp cần đợc chuyển sang cho vay trực
tiếp đối với hộ sản xuất thuộc các ngành này thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ".
Ngày 2/03/1993 trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm sau hơn 1 năm "làm thử"
việc chuyển sang cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 14/CP về "chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển sản xuất nông,
lâm, ng, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn". Đây là bớc tiến mới, vì chỉ thị 202/CP
chủ yếu chỉ đề cập đến việc chuyển hớng tín dụng ngân hàng sang cho vay trực tiếp
hộ sản xuất và triển khai thực hiện nh một chơng trình thử nghiệm.
Ngày 20/03/1999 chính phủ ban hành Quyết định số 67/199/QĐ-TTg về
"một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn".
Ngày 16 tháng 04 năm 1999 Thống đốc ngân hàng nhà nớc có văn bản số
320 CV-NHN 14 hớng dẫn thực hiện một số nội dung trong Nghị định 67 của Chính
phủ và giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chịu
trách nhiệm chủ yếu thực hiện.
Thống đốc ngân hàng nhà nớc Việt Nam yêu cầu các chi nhánh ngân hàng
thực hiện một số nội dung sau có liên quan tới tín dụng hộ sản xuất.
* Về nguồn vốn :
- Các chi nhánh thành viên phải có biện pháp phù hợp để huy động nguồn
vốn của các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể đã góp phần phục vụ cho phát triển
nông nghiệp và nông thôn của địa phơng.
- Để tranh thủ ngày càng nhiều nguồn vốn từ nớc ngoài, các chi nhánh phải
thực hiện việc giải ngân đúng cẩm nang và đúng thời gian bảo đảm hiệu quả cao các
dự án uỷ thác để tăng tín nhiệm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam đối với Chính phủ và các tổ chức tín dụng nớc ngoài.
Đối với tín dụng thực hiện các chơng trình kinh tế theo chính sách của Đảng,
Nhà nớc có u đãi lãi suất, phải tổ chức tốt khâu thẩm định và giải ngân để nhận toàn
bộ nguồn vốn từ ngân sách Nhà nớc chuyển sang Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nôngthôn Việt Nam cho vay các chơng trình này.
* Về cơ chế tín dụng:
Các chi nhánh tổ chức tốt việc điều tra nắm nhu cầu vốn phục vụ cho việc
phát triển kinh tế hộ trên địa bàn.
* Về cơ chế đảm bảo tiền vay.
- Đối với hộ gia đình sản xuất nông - lâm - ng - diêm nghiệp, mức vay tối đa
đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, nhng mức vay cụ thể phải căn cứ vào
nhu cầu vốn hợp lỹ cho từng đối tợng vay và có hiệu quả của dự án sản xuất kinh
doanh. Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện bảo đảm tiền vay bằng tài
sản, quyền sử dụng đất
- Đối với các khoản vay khắc phục thiên tai thì ngời vay không phải thực hiện
quy định đảm bảo tiền vay. Trong trờng hợp có rủi ro, các chi nhánh báo cáo cho
Thống đốc để trình Thủ tớng chính phủ xem xét giải quyết.
* Về mạng lới phục vụ và giao dịch:
- Các chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, thành
phố phải căn cứ vào địa bàn hoạt động, đối tợng tín dụng, khả năng tài chính, từng
bớc mở rộng mạng lớu ngân hàng loại IV (xã, liên xã, thị trấn) để đáp ứng yêu cầu
và huy động vốn vừa cho vay tạo thuận tiện cho khách hàng, thực hiện giải ngân tại
chỗ, trực tiếp đến hộ vay vốn.
- Việc uỷ thác cho quỹ tín dụng và các ngân hàng thơng mại cổ phần ở nông
thôn làm đại lý một số nghiệp vụ tín dụng, chi nhánh phải xem xét đầy đủ khả năng
quản lý, tài chính và khả năng thực hiện nghiệp vụ đại lý của tổ chức này và phải có
đề án trình Tổng giám đốc xem xét quyết định mới thực hiện.
3.2. Một số quyết định chính sách của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam đối với tín dụng đầu t hộ sản xuất.
- Căn cứ điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam ban hàng kèm theo Quyết định số 390/QĐ - NHNN5
ngày 22 tháng 11 năm 1997 của Thống đốc ngân hàng nhà nớc Việt Nam.
- Căn cứ Quyết định số 284/2000/QĐ - NHNN1 ngày 21/9/2000 của Thống
đốc ngân hàng Nhà nớc Việt Nam về đối tợng cho vay bằng ngoại tệ của tổ chchính
sách tín dụng.
- Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam kỳ họp lần thứ 15.
Ban hành kèm theo quyết định này quy định cho vay đối với khách hàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét