Các phương thức đầu tư có thể mô phỏng theo sơ đồ sau:
TLSX (TLLĐ - ĐTLĐ)
T - H SX H' - T' ( T' > T)
SLĐ
Sự vận động của vốn được bắt đầu bằng hình thái tiền tệ sang hình
thái hàng hoá (tư liệu lao động, sức lao động), qua quá trình sản xuất vốn trở
lại hàng hoá (sản phẩm, dịch vụ.), cuối cùng trở về hình thái tiền tệ lớn hơn
lượng tiền tệ ban đầu.
1.1.1.2 Đặc điểm vốn kinh doanh:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng phải có vốn, đó là một tiền đề cần thiết. Trong thời kỳ
bao cấp, phần lớn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được Nhà nước
cấp phát hoặc cho vay với lãi suất thấp nên các doanh nghiệp không quan
tâm đến tính hàng cũng như đặc trưng của vốn. Trong nền kinh tế thị
trường vốn là yếu tố số một của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, số
vốn đó không tự nhiên mà có. Vì vậy để quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả, chúng ta cần phải nhận thức đủ hơn về những đặc trưng sau đây:
Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản
được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Vốn chính
là hàng hoá được biểu hiện dưới dạng nhà xưởng máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu, chất xám
®µo quang long_tm46b 5
Vốn vận động phải sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng
để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động sinh lời. Tiền là dạng
tiềm năng của vốn trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện
dưới những hình thái khác nhau: Tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi
kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải
lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài
sản cố định không cần dùng, tài nguyên, sức lao động không được sử
dụng, tiền, vàng bỏ vào dự trữ hoặc các khoản nợ khế đọng khó đòi chỉ
là những đồng vốn ''chết''. Mặt khác tiền có vận động nhưng lại bị thất
tán, không quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn thì đồng vốn cũng
không được bảo đảm chu kỳ vận động tiếp theo bị ảnh hưởng.
Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định thì mới có
thể phát huy tác dụng. Không có đủ lượng vốn nhất định thì không thể
đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đặt ra trong sản xuất kinh doanh.
Vốn phải có giá trị về thời gian: Điều này có nghĩa là phải xem xét
yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch tập trung vấn đề
này không được xem xét kỹ lưỡng vì Nhà nước đã tạo ra sự ổn định của
đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế thị
trường đều phải xem xét giá trị thời gian của tiền vốn, bởi vì do ảnh
hưởng của sự biến động giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền ở những
thời điểm khác nhau cũng khác nhau.
Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mỗi đồng tiền vốn phải gắn với chủ
sở hữu nhất định. Trong nền kinh tế thị trường không thể có những đồng
vốn vô chủ, bởi lẽ những đồng vốn vô chủ gây ra sự chi tiêu lãng phí kém
hiệu quả. Khi xác định được chủ sở hữu thì đồng vốn mới được chi tiêu tiết
kiệm có hiệu quả.
®µo quang long_tm46b 6
Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người có
vốn có thể đưa vốn vào thị trường, những người cần tới vốn, tới thị
trường vay nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn của người
chủ sở hữu hay quyền sở hữu của đồng vốn không di chuyển nhưng
quyền sử dụng vốn được chuyển nhượng qua sự vay nợ; người vay phải
trả một tỷ lệ lãi suất thoả thuận đối với người cho vay. Như vậy khác với
hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn khi được bán đi thì người bán
không bị mất quyền sở hữu mà chỉ bị mất quyền sử dụng. Người mua
được quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định và họ phải trả cho
người chủ sở hữu vốn một khoản tiền, đó là lãi suất. Việc mua bán vốn
diễn ra trên thị trường tài chính, do đó lãi suất cũng phải tuân theo quan
hệ cung cầu của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường vốn không những chỉ biểu hiện bằng
tiền của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện bằng những tài sản
vô hình như: vị trí kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền phát minh sáng chế,
bí quyết công nghiệp, uy tính doanh nghiệp Những tài sản vô hình này
góp phần vô cùng quan trọng trong quyết định đầu tư và phát triển vốn
của doanh nghiệp.
1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh ở doanh nghiệp:
Căn cứ vào chức năng, công dụng kinh tế thì vốn kinh doanh của
doanh nghiệp bao gồm 2 loại vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2.1 Vốn cố định.
a. Khái niệm vốn cố định.
®µo quang long_tm46b 7
Như mọi hàng hoá khác, tài sản cố định cũng có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng, nó cũng là đói tượng để mua bán trao đổi trên
thị trường. Như vậy trong nền sản xuất hàng hoá tiền tệ, để mua sắm tài
sản cố định trước hết phải có một số vốn ứng trước. Số vốn đầu tư ứng
trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình và
vô hình được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Số vốn này nếu
được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại
được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình.
b. Đặc điểm vốn cố định.
Là số vốn đầu ứng trước để mua sắm, xây dựng tài sản cố định nên
quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của tài sản cố
định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng
lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc
điểm kinh tế của tài sản cố định trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng
quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Vì vậy trước hết ta phải xem xét đặc điểm trong cách phân loại tài sản cố
định.
Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu, tham gia trực
tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất như máy móc thiết bị, nhà
xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc, chi phí mua bằng phát minh
sáng chế.
®µo quang long_tm46b 8
Đặc điểm cơ bản của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, mặc dù tài sản cố định bị hao mòn,
song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu,
còn giá trị của nó được chuyển dịch dần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra.
Chỉ khi nào tài sản cố định bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy
không có lợi về mặt kinh tế thì nó mới được thay thế đổi mới. Tài sản cố
định là một phạm trù kinh tế, tài sản cố định phải là sản phẩm của lao
động xã hội (tức là có giá trị) và tham gia vào quá trình sản xuất với chức
năng của tư liệu lao động (giá trị sử dụng). Điều này cho thấy tài sản cố
định phải có đầy đủ các thuộc tính của một hàng hoá (giá trị và giá trị sử
dụng) như mọi hàng hoá thông thường khác. Do đó những lực lượng tự
nhiên như thác nước, dòng sông, đất đai có trường hợp làm tư liệu lao
động của xã hội chế tạo máy chỉ được coi là sản phẩm đang lưu thông;
nhà xưởng, thiết bị máy móc đang xây dựng và lắp đặt chỉ được coi là đối
tượng lao động. Tư liệu lao động chỉ được coi là tài sản cố định khi thoả
mãn 2 điều kiện sau.
- Có thời gian sử dụng hơn 1 năm
- Có giá trị ≥ 5 triệu đồng
Có thể nói, quá trình vận động của tài sản cố định được cụ thể hoá như
sau:
Về mặt hiện vật, tài sản cố định gồm những tư liệu lao động chủ
yếu tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, bị hao mòn, biểu hiện ở giá trị sử
dụng ngày càng giảm bớt nhưng vẫn giữ nguyên hình thái hiện vật cho
đến khi hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi quá trình sản xuất.
®µo quang long_tm46b 9
Về mặt giá trị, vốn để mua sắm tài sản cố định phải ứng toàn bộ 1
lần khi bắt đầu tham gia vào quá trình sản xuất, số vốn đó chỉ được hoàn
lại từng phần nhỏ do được rút ra từ lưu thông sau khi kết thúc mỗi chu kỳ
sản xuất. Như vậy, trong quá trình sản xuất, giá trị tài sản cố định luôn
luôn tồn tại dưới 3 hình thái: hình thái ban đầu gắn liền với hiện vật tài
sản cố định, một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm sản xuất ra và một
bộ phận chuyển hoá thành tiền khi sản phẩm hàng hoá bán được. Bộ phận
ban đầu ngày càng giảm bớt, bộ phận tiền tệ ngày càng tăng lên cho đến
khi bộ phận này vừa đúng bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì
cũng là lúc kết thúc một vòng chu chuyển của vốn cố định. Vì thế mà quá
trình tái sản xuất ra hình thái vật chất ban đần của tài sản cố định không
tiến hành đồng thời với tái sản xuất ra giá trị của nó và không nhất thiết
thực hiện sau một chu kỳ sản xuất mà có thể thực hiện sau một thời gian
dài, khi nó kết thúc thời gian sử dụng và bị hư hỏng hoàn toàn. Từ đó cho
thấy việc quản lý tài sản cố định rất phức tạp và khó khăn, việc tái sản
xuất tài sản cố định và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có một ý
nghĩa quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
Từ việc nghiên cứu đặc điểm tài sản cố định ta có thể rút ra một số
đặc điểm luân chuyển vốn cố định là:
Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm,
điều này do đặc điểm của tài sản cố định được sử dụng lâu dài, trong
nhiều chu kỳ sản xuất quyết định.
Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các
chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được
luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi
phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định.
®µo quang long_tm46b 10
Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một
vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển
vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn cố định ban đầu và
tài sản cố định lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời
gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm
sản xuất ra thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc
quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật
của nó là các tài sản cố định của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Vốn lưu động.
a. Khái niệm vốn lưu động
Mỗi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
ngoài tư liệu lao động ra còn có đối tượng lao động. Đối tượng lao động
khi tham gia vào sản xuất không giữ nguyên trạng thái vật chất ban đầu,
bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến
hợp thành thực thể sản phẩm. Bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá
trình sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng loại đối tượng lao
động khác. Cũng do đặc điểm nêu trên nên toàn bộ giá trị của đối tượng
lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp
khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật
được gọi là các tư liệu lao động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn
lưu động của doanh nghiệp.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tư liệu
lao động và tài sản lưu thông nhằm đảo bảo cho quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục.
b. Đặc điểm của vốn lưu động.
®µo quang long_tm46b 11
Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong
các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh. Dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu
thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp lại theo chu
kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua
mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại được thay đổi hình
thái thể hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn
vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái
vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một
vòng chu chuyển.
Vậy vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình sản xuất. Đáp ứng đầy đủ vốn lưu động cho quá trình sản xuất
cũng như quá trình lưu thông giúp cho doanh nghiệp có thể rút ngắn được
vòng luân chuyển của vốn. Việc đáp ứng không kịp thời và hợp lý nhu
cầu vốn lưu động sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến
doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, việc xác định nhu
cầu vốn lưu động quá cao sẽ gây ra ứ đọng vốn, vật tư, hàng hoá, vốn lưu
động chậm luân chuyển. Do đó vấn đề tổ chức, bảo toàn và sử dụng vốn
lưu động hợp lý có vai trò rất quan trọng, doanh nghiệp sử dụng vốn lưu
động càng có hiệu quả thì càng sản xuất được nhiều sản phẩm, tiết kiệm
được vốn lưu động và mang lại hiệu quả cao, giúp doanh nghiệp đạt đuợc
mục đích kinh doanh của mình.
1.1.3 Nguồn hình thành vốn kinh doanh:
Nếu người quản lý không bao quát được các nguồn vốn, nội dung
và tính chất của các nguồn vốn có thể huy động được trong sản xuất kinh
doanh thì đó là sai lầm trong công tác quản lý đầu tư, sử dụng vốn kinh
doanh. Vì vậy việc nghiên cứu nội dung, tính chất của các nguồn vốn sẽ
là cơ sở cho việc lựa chọn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu
khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp.
®µo quang long_tm46b 12
Vốn kinh doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau.
Tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy
động vốn trên một số nguồn nhất định. Vì thế, người ta có thể căn cứ vào
nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp để nhận biết doanh
nghiệp đó thuộc loại nào. Chẳng hạn, doanh nghiệp có vốn kinh doanh
chủ yếu thuộc nguồn ngân sách Nhà nước thì đó là doanh nghiệp Nhà
nước, hoặc một doanh nghiệp khác lại có vốn kinh doanh từ nguồn tự có
và cổ phần thì đó là một doanh nghiệp tư nhân, một công ty cổ phần.
Trong cơ chế thị trường, vốn kinh doanh của mỗi doanh nghiệp có
thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi ngành đều có ưu
nhược điểm nhất định, vì thế huy động vốn với một chi phí thấp nhất là
yêu cầu cấp bách đặt ra đối với doanh nghiệp. Do đó cần thiết phải phân
loại.
- Căn cứ vào quyền sở hữu về vốn thì vốn kinh doanh của doanh
nghiệp có thể chia làm hai loại: Nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả:
+ Vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sử hữu của doanh
nghiệp (doanh nghiệp Nhà nước chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp
tư nhân chủ sở hữu là những người đóng góp vốn). Khi doanh nghiệp mới
được thành lập, vốn chủ sở hữu hình thành vốn điều lệ, còn có một số
nguồn khác cũng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như: lợi nhuận không chia,
quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính, chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại
tài sản Đây là nguồn rất quan trọng và có tính ổn định cao.
®µo quang long_tm46b 13
+ Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân
kinh tế: nợ tiền vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, tiền huy động
từ phát hành trái phiếu, các khoản nợ, phải trả cho Nhà nước, cho người
bán, cho công nhân viên. Nguồn này có tính chất tạm thời và thường
xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản
chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay.
Để đo lường vốn vay của chủ sở hữu với số nợ vay người ta thường
dùng hệ số nợ hay đòn bẩy tài chính. Nó vừa là một công cụ tích cực cho
việc khuyếch đại lợi nhuận ròng trên một đồng vốn chủ sở hữu và là một
công cụ kìm hãm sự gia tăng đó. Sự thành công hay thất bại này tuỳ thuộc
vào sự không ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp khi chọn cơ cấu nguồn
sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào phạm vi huy động có thể chia thành 2 loại nguồn vốn
sau:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy
động được từ bản thân doanh nghiệp, nó được hình thành từ tiền khấu hao
tài sản cố định, lợi nhuận để lại, quỹ đầu tư phát triển kinh doanh, các
khoản dự trữ, dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố
định.
Nguồn vốn bên trong có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển của
doanh nghiệp. Huy động và sử dụng nguồn vốn bên trong tốt tạo điều kiện
cho doanh nghiệp sử dụng vốn. Tuy nhiên không vì thế mà xem nhẹ công
tác quản lý sử dụng nguồn vốn này, vì trong hầu hết các doanh nghiệp
nguồn vốn này sử dụng kém hiệu quả nhất.
®µo quang long_tm46b 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét