Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

So sánh về cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992

của Đảng được thực hiện sản lượng lương thực đã tăng từ 19,583 triệu tấn (năm
1988) lên 21,439 triệu tấn (năm 1989). Từ năm 1988 đến năm 1990, diện tích gieo
trồng tăng 3,9%1 . Trong nông thôn, số hộ nghèo đói năm 1990 là 34,4%, đến năm
1992, đã giảm xuống 19,6%2 .
b) Bên cạnh đổi mới chính sách nông nghiệp, Đảng ta chủ trương đổi mới
chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp Nhà nước. Đó là chính sách chuyển từ cơ
chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, xác lập quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước:
Từ năm 1987, các xí nghiệp quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh. Ngày
14-11-1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 217-HĐBT về đổi mới kế
hoạch hoá và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Ngày 2-12-1989, Hội đồng
Bộ trưởng lại ban hành quyết định về những quy định bổ sung Quyết định 217-
HĐBT chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Những quyết định này đã chấm dứt tình trạng người lao
động thờ ơ với tưliệu sản xuất, thờ ơ với nhu cầu thị trường và sự tiêu thụ sản
phẩm.
c) Chính sách quan trọng thứ ba trong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước
là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
Trước cải cách năm 1988, doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được chấp
nhận. (Trừ các doanh nghiệp hợp doanh với Nhà nước). Từ năm 1988, các công ty
tưnhân bắt đầu hình thành. Các công ty tưnhân có nhiều hình thức: Công ty do một
tưnhân làm chủ gọi là doanh nghiệp tư nhân, một số tư nhân làm chủ gọi là công ty
trách nhiệm hữu hạn; hoặc bằng cổ phiếu gọi là công ty cổ phần; hoặc công ty theo
hình thức hợp tác xã. Năm 1990 đã có 340 công ty tư nhân được thành lập; năm
1991 có 163 và năm 1992 có 1.868 công ty tư nhân được thành lập.
d) Chính sách quan trọng thứ tưtrong việc đổi mới nền kinh tế của đất nước
là chính sách kinh tế mở cửa với nước ngoài.
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế ở nước ta là nền kinh
tế khép kín. Vấn đề xuất khẩu không được Nhà nước quan tâm, không có đầu tư
nước ngoài, không hoà nhập được với kinh tế thế giới. Với chính sách kinh tế mở
cửa năm 1991, kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 2,08 tỷ USD . Thực hiện chính
sách thu hút đầu tưnước ngoài vào Việt Nam. Ngày 29-12-1987, Quốc hội đã
thông qua "Luật đầu tưnước ngoài tại Việt Nam". Tiếp đó, ngày 30-6-1990, lại
thông qua, "Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tưnước ngoài tại Việt
Nam" nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc thu hút đầu tưcủa nước ngoài
vào nước ta. Ví dụ, khu vực nội địa trả thuế lợi tức doanh nghiệp là 25% đến 45%
trong khi đó doanh nghiệp nước ngoài chỉ trả 10% đến 25%. Hơn nữa khu vực
nước ngoài lại được hưởng 1 năm đến 4 năm miễn thuế và sau đó 1 đến 4 năm
giảm thuế 50%. Nhờ chính sách này mà sự đầu tưnước ngoài vào Việt Nam ngày
một gia tăng.
Nhờ những chính sách cải cách kinh tế nói trên mà tốc độ phát triển kinh tế của
nước ta từ năm 1986 đến năm 1990 là 4,9% và tốc độ lạm phát giảm từ 775% -
năm 1986 xuống 17,5% - năm 19922 .
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt yếu, kém và
những khó khăn lớn phải khắc phục. Sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đã có
nhưng chưa vững chắc. Kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có sự xác định về
mặt pháp lý vị trí, vai trò và sự bình đẳng của chúng trước pháp luật. Trong quản lý
kinh tế còn nhiều sơ hở, pháp luật còn thiếu sự đồng bộ, còn mâu thuẫn chồng chéo
và thiếu sự ổn định tương đối. Nạn tham nhũng và buôn lậu vẫn tiếp tục hoành
hành.
Trong lĩnh vực cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị và thực
hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đề ra những
định hướng nhất định. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại
Đại hội đã chỉ rõ: "Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách
lơn về tổ chức bô máy của các cơ quan Nhà nước" . Về vấn đề này đồng chí Đỗ
Mười đã viết: "Cần phải đổi mới căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của bộ
máy Nhà nước ta cũng nhưcủa toàn bộ hệ thống chính trị xã hội. Đổi mới căn bản
không có nghĩa là thay đổi bản chất của Nhà nước ta, mà chính là làm cho nó thể
hiện ngày càng đầy đủ bản chất dân chủ, nâng cao năng lực quản lý, điều hành,
thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng xã hội mới. Đổi mới căn bản có nghĩa là không
những phải xác định lại chức năng, mối quan hệ giữa các bộ phận trong bộ máy
Nhà nước, mà còn phải đổi mới toàn bộ cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của
chúng, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản
lý kinh tế - xã hội có hiệu quả; hoạt động trên cơ sở pháp luật và thực hiện được
quản lý xã hội bằng pháp luật".
- Việc cải cách bộ máy Nhà nước được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán
triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết
chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân".
Một Nhà nước thực sự dân chủ là Nhà nước thể hiện được quyền lực của nhân dân,
bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền tự do dân chủ của nhân dân. ở nước ta, nhân
dân thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp. Vì vậy, phải nhận thức đúng vị trí, vai trò của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp; cần phải thay đổi tổ chức và hoạt động của các cơ quan này bảo
đảm cho chúng thực sự là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân. Để Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp có đủ năng lực thực hiện vai trò, chức năng của
mình, phải xây dựng cơ chế bầu cử thật sự dân chủ, bảo đảm chọn được những đại
biểu xứng đáng bầu vào các cơ quan này. Việc giới thiệu người ra ứng cử phải làm
từ dưới lên, phổ biến tuyên truyền rộng rãi tiêu chuẩn và yêu cầu đối với người
được giới thiệu ra ứng cử, nhưng phải tôn trọng ý kiến của nhân dân, không gò ép .
- Yêu cầu dân chủ trong thiết chế, tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước còn
đòi hỏi phải xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa các hệ thống cơ quan Nhà nước
lập pháp, hành pháp, tưpháp và mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà nước trung
ương với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo sự tập trung thống nhất quyền
lực Nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập
trong việc thực hiện chức năng của mình, bảo đảm cho chính quyền địa phương, cơ
sở chủ động, sáng tạo và toàn quyền quản lý trên lãnh thổ. Khác với các Nhà nước
tưsản, nơi mà bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền
lực, các quyền lập pháp, hành pháp và tưpháp được trao cho ba hệ thống cơ quan
khác nhau, độc lập, chế ngự và đối trọng lẫn nhau. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực: "Trong Nhà nước xã
hội chủ nghĩa mọi cơ quan bắt nguồn từ cơ quan quyền lực, nhận quyền lực từ nó
và chịu sự kiểm tra, giám sát của nó. Hơn nữa, cần phải nhận thức rằng, các cơ
quan hành pháp và tư pháp thực hiện chức năng của mình đều nhân danh quyền lực
Nhà nước bảo đảm cho quyền lực Nhà nước được thực hiện thống nhất trên các
lĩnh vực này. Như vậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, có
quyền lập pháp và kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tưpháp.
Mặt khác, cũng cần nhận thức rằng, để Nhà nước hoạt động có hiệu quả phải có
thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động sao cho vừa bảo đảm được sự tập trung thống
nhất quyền lực, vừa có sự phân công, phân biệt rõ ràng về mặt chức năng giữa các
hệ thống cơ quan Nhà nước; đồng thời phải có cơ sở pháp lý và tổ chức bảo đảm
cho mỗi hệ thống cơ quan độc lập và chủ động trong việc thực hiện chức năng của
mình, không có sự lấn át giữa cơ quan này với cơ quan khác".
- Yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước đòi hỏi Nhà nước phải
thể chế hoá một cách đầy đủ các quyền tự do dân chủ cũng như các nghĩa vụ của
công dân vào Hiến pháp và tạo điều kiện để mọi thành viên trong xã hội có thể
thực hiện được các quyền và nghĩa vụ đó trên thực tế.
- Cùng với việc đổi mới chế độ kinh tế, cải cách bộ máy Nhà nước, vấn đề hoàn
thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần
phải phân định chức năng của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước. "Thực tiễn
cách mạng nước ta chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn của một Đảng vững
mạnh, kiên cường là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách
mạng. Tuy nhiên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, sự phân định chức
năng của Đảng và Nhà nước ngày càng trở nên cấp thiết. Sự lẫn lộn chức năng
giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng Đảng vừa bao biện làm thay vừa buông
trôi, khoán trắng cho Nhà nước làm cho Nhà nước khó phát huy vai trò của mình".
Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị, nhưng vai trò đó trong giai đoạn giành được
chính quyền thể hiện khác với giai đoạn chưa giành được chính quyền. Trong quá
trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền Đảng định ra đường lối chiến
lược, sách lược đấu tranh đồng thời Đảng là bộ chỉ huy, bộ tham mưu của cuộc đấu
tranh đó. Đảng trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng đấu tranh chính trị, đấu
tranh vũ trang. Khi đã giành được chính quyền Đảng không thể lãnh đạo chính
quyền, lãnh đạo xã hội với tưcách là trung tâm điều hành trực tiếp nhưtrước.
Không thể hiểu một cách giản đơn và siêu hình rằng, "Đảng cầm quyền có nghĩa là
Đảng trực tiếp quyết định mọi việc của Nhà nước có thể lấy nghị quyết, chỉ thị của
Đảng thay cho pháp luật của Nhà nước, cơ quan Đảng là cấp trên của cơ quan Nhà
nước" , v.v
- Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cải cách bộ máy Nhà nước, hoàn thiện hệ thống chính trị; mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã hoạch định một đường lối đối ngoại rộng mở. Đó là
thiết lập các quan hệ hoà bình, hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Với tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khoá VII, tại Kỳ
họp thứ 3 ngày 22-12-1988 đã ra nghị quyết sửa đổi lời nói đầu, không chỉ rõ đích
danh thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bành trướng Trung Quốc cho phù hợp với
quan hệ đối ngoại tốt đẹp đang mở ra giữa ta với nước Cộng hoà Pháp, hợp chủng
quốc Hoa Kỳ và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Ngày 30-6-1989, Kỳ họp thứ 5,
Quốc hội khoá VIII ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 115, 116, 118, 122, 123, 125,
để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và
thành lập thêm Thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thành phố
thuộc tỉnh, thị xã đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân. Đồng thời trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết
thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn
diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế - xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế. Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp được thành lập bao gồm 28 người do Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công làm Chủ tịch. Uỷ ban dự thảo Hiến pháp đã họp
nhiều phiên để chỉnh lý, bổ sung và thông qua toàn văn dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra
trưng cầu ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý
kiến của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương, dự thảo Hiến pháp lần 4 đã
hoàn thành và được trình Quốc hội khoá VIII, tại Kỳ họp thứ 11 xem xét. Sau
nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý, bổ sung nhất định, ngày 15-4-
1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Việc soạn thảo và ban hành Hiến
pháp 1992 là một quá trình thảo luận dân chủ và chắt lọc một cách nghiêm túc
những ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân về tất cả các vấn đề từ quan
điểm chung đến các vấn đề cụ thể. Bản Hiến pháp này là bản Hiến pháp của Việt
Nam trong tiến trình đổi mới. Đúng nhưnhận xét của đồng chí Đỗ Mười Tổng Bí
thưBan Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Hiến pháp 1992 là "sản
phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước".
Vào thời điểm Quốc hội thông qua Hiến pháp, thực dân Pháp phản bội các
hiệp định đã ký kết với Chính phủ ta, chúng không ngừng khiêu khích và tấn công
chúng ta bằng vũ lực, hòng lập lại ách thống trị của chúng ở Việt Nam. Trước tình
hình đó, trong phiên họp ngày 9-11-1946, sau khi tuyên bố Hiến pháp đã trở thành
chính thức, Quốc hội ra Nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban thường trực Quốc hội
cùng với Chính phủ ban bố và thi hành Hiến pháp khi có điều kiện thuận lợi. Theo
Nghị quyết của Quốc hội trong điều kiện chưa thi hành được Hiến pháp thì Chính
phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp để ban hành các
sắc luật. Ngày 19-12-1946, mười ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp,
cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp
1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện
nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy nhiên Chính phủ dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh
thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 (TNĐL) của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được mở đầu bằng câu nổi tiếng về nhân quyền trích Tuyên ngôn Độc lập
nước Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Hiến pháp năm 1946 (HP 46), hiến pháp đầu tiên của nước ta đã cụ thể hoá
các quyền con người mà bản Tuyên ngôn Độc lập đã long trọng xác nhận. Nội
dung Hiến pháp được xuyên suốt bởi quan điểm như đã được ghi ở điều 1: "Nước
VN là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân VN, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo".
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước cách mạng VN đã là một nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Đó là nhà nước mà toàn bộ hoạt động của nó chỉ hướng tới mục đích
duy nhất là xác lập, bảo vệ và không ngừng mở rộng quyền làm người cho công
dân VN.
Quá trình tồn tại, phát triển của Nhà nước Cách mạng VN gắn liền với quá
trình mở rộng không ngừng và bảo vệ nghiêm ngặt nhân quyền được thể hiện trong
các hiến pháp tiếp theo HP 46. Quyền làm người của công dân VN còn được cụ thể
hoá và được bảo vệ bằng toàn bộ hệ thống pháp luật của Nhà nước VN. Mọi bộ
luật, mọi đạo luật, mọi điều luật của hệ thống pháp luật của Nhà nước VN đều
hưóng tới sự mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân VN.
Mọi hoạt động của Đảng cầm quyền, của các cơ quan nhà nước, của mọi viên chức
đều phải lấy việc mở rộng và bảo vệ nghiêm ngặt quyền làm người của công dân
VN làm mục tiêu phục vụ cao nhất. Các hành vi như: quan liêu, cậy quyền,cấm
đoán về bản chất đều là những hành vi vi phạm quyền con người, cho dù người
vi phạm chưa nhận thức ra điều đó.
Đấu tranh xác lập, bảo vệ và mở rộng quyền con người là cuộc trường chinh
của cả nhân loại. Đó cũng là động lực, mục tiêu đấu tranh để đưa loài người phát
triển đến những đỉnh cao mới. Cuộc đấu tranh giành quyền làm người của nhân
dân và các dân tộc VN đã được bắt đầu từ thuở Vua Hùng dựng nước. Nhưng phải
đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản VN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền
làm người của công dân VN mới được ghi nhận rõ ràng trong HP 46. Từ đó đến
nay đã 60 năm trôi qua. Quyền con người được ghi trong HP 46 không ngừng được
mở rộng. Tuy vậy công cuộc đấu tranh nhằm xác lập, bảo vệ quyền con người của
công dân VN vẫn đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Đó là âm mưu
của các thế lực thù địch từ nước ngoài lợi dụng chiêu bài bảo vệ nhân quyền để vi
phạm chủ quyền của VN.Sự vi phạm nhân quyền còn xảy ra trong nội bộ dưới
những hành vi vi phạm pháp luật của những phần tử thoái hoá trong bộ máy nhà
nước và trong nhân dân.
Cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền với cuộc đấu tranh phát triển đất nước
luôn luôn phải được tiến hành một cách hài hoà, cân đối. Đó là bài học bất biến của
xã hội VN mà HP 46 đã đặt nền móng cho sự phát triển đi lên không ngừng của
nước VN.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về Chính phủ Việt Nam
Đã có nhiều những định nghĩa, mô hình tổ chức Chính phủ khác nhau
trên thế giới, nhưng được quy về những mô hình nhất định, thực chất là đi
tìm điểm chung của những Chính phủ cụ thể để mà nhận thức, còn trên thực
tế dù với mô hình Tổng thống P.H. Thái / Tạp ch+ Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế -
Luật 24 (2008) 201-205 202
(chế độ hành pháp một đầu) hay mô hình hành pháp hai đầu (Tổng thống và
Chính phủ), v.v thì cũng có vô số những biến thể của nó, không nước nào giống
nước nào một cách nguyên mẫu và cũng sẽ chẳng bao giờ có được một mô hình
hoàn bị nhất trên thực tiễn, nếu có chỉ là trong sự tưởng tượng của con người.
Do đó, trong nhận thức không nên thần thánh hóa bất kỳ một mô hình
Chính phủ nào, mỗi mô hình có những ưu điểm và hạn chế nhất định của nó,
cùng một mô hình nhưng phù hợp với quốc gia này, nhưng lại không phù hợp
với quốc gia khác, điều này do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan quyết định,
đặc biệt là yếu tố văn hóa. Về Chính phủ, chỉ nói riêng Việt Nam mỗi Hiến
pháp có một quan niệm khác nhau, Hiến pháp 1946: Chính phủ là cơ quan hành
chính cao nhất của nước; Hiến pháp 1959: Hội đồng Chính phủ là cơ quan
chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Hiến pháp 1980: Hội đồng bộ
trưởng là Chính phủ của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
là cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất; Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) lại
quy định: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Những
quy định Hiến pháp khác nhau này là điểm đánh dấu cho những tìm tòi suy ngẫm
đã được đúc kết cả về mặt nhận thức và thực tiễn và đồng thời cũng phản ánh xu
hướng lý thuyết mà chúng ta tiếp nhận để hình thành nên lý thuyết của mình về
Chính phủ. Nhưng những quy định này cũng chỉ ra điều là chúng ta đang nhận
thức lại Chính phủ, lại phương thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, về
địa vị chính trị - hiến pháp của Chính phủ. Về địa vị chính trị - hiến pháp
của Chính phủ theo Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có
những tương đồng với địa vị chính trị - hiến pháp của Hiến pháp 1959, ở đây thể
hiện tính chu kỳ của nhận thức, đã quay được ½ chu kỳ nếu lấy Hiến pháp 1946
làm mốc và coi đó là một chu kỳ, giống như một chu kỳ của tự nhiên, của đời
người là 60 năm. Với những quy định của Hiến pháp 1992 về Chính phủ nhiều tài
liệu đã bình luận là Hiến pháp 1992 đã đi theo hướng đề cao vai trò của người
đứng đầu Chính phủ, nhưng vẫn đảm bảo Chính phủ là một thể chế làm việc
theo chế độ tập thể, nhưng những người nghiên cứu đều nhận thấy rằng chế độ
lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách của Thủ tướng, các Phó thủ tướng,
Bộ trưởng đều không có sự rõ ràng về mặt pháp lý. Khi Chính phủ là một tập
thể thì mọi thành viên Chính phủ đều ngang quyền, đều có quyền bàn bạc và biểu
quyết để thông qua mọi quyết định thuộc thẩm quyền, theo quy tắc đa số,
những cũng có ngoại lệ khi số phiếu đồng ý và không đồng ý ngang nhau thì
quyết định sẽ thuộc vào bên nào có ý kiến của Thủ tướng. Một quy phạm có tính
hình thức, thực tiễn khó có thể xảy ra điều này. Nếu Chính phủ là một tập thể
thì mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ đều phải
được bàn bạc tập thể, và biểu quyết theo đa số (ở đây không có khái niệm việc
lớn, việc nhỏ). Chính vì lôgíc đó nên quy định: có những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Chính phủ, nhưng xét thấy không cần thiết phải bàn bạc tập thể thì do
Thủ tướng quyết định. Cái không rõ ràng, minh bạch mập mờ về pháp lý và tất
yếu diễn ra trên thực tế là ở chính điểm này, và như vậy Thủ tướng lại chính là
Chính phủ, chứ không phải là “bộ trưởng thứ nhất” để lãnh đạo, điều hành
Chính phủ. Cũng chính do Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể và để đảm
bảo sự hoạt động thường xuyên liên tục của thể chế này nên Chính phủ
phải thường xuyên họp. Họp là một hình thức của quản lý nhà nước, không thể
coi nhẹ hình thức này. Thời phong kiến có hình thức thiết triều, thời nay gọi là
họp để giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động, điều hành đất nước.
2. Cơ cấu tổ chức của chính phủ trong các hiến pháp 1946 và năm 1992.
tập quyền”mềm” nghĩa là quyền lực nhà nước vẫn tập trung thống nhất nhưng cần
phải có sự phân chia chức năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy hiến pháp năm 1992 quy định chính
phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nhà nước CHXHCNVN”. Với quy định này
chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước chứ không phải
của Quốc hội, có thể hoạt động một cách độc lập tương đối trong lĩnh vực hành
chính nhà nước. Quyền hạn của thủ tướng chính phủ được tăng cường hơn trước
so với hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Như vậy bắt đầu từ sự thay đổi trong
hình thức tổ chức nhà nước cơ cấu chính phủ của HP 1946 với cơ cấu chính phủ
của HP 1992 có những nét khác nhau khá cơ bản. Sau đây ta đi so sánh sự khác
nhau của chúng ở những điểm cơ bản sau:
cơ cấu tổ chức chính phủ
HP 1946 1992
vị trí Cơ quan hành chính cao nhất của
toàn quốc là Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hoà (43)
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội,
cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(109)
thành
viên,

quan
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ
trưởng, Thứ trưởng. Có thể có
Phó Thủ tướng. (44)
Chủ tịch nước vừa là người đứng
đầu Nhà nước vừa là người đứng
đầu Chính phủ, không phải chịu
trách nhiệm trước nghị viện.
Chính phủ do Nghị viện thành lập
và Nội các phải chịu trách nhiệm
trước Nghị viện
Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng
và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các
thành viên khác của Chính phủ không nhất
thiết là đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ
theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ
tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được
Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công
tác của Chính phủ. (110)
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể
nhân dân được mời tham dự các phiên họp
của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.
(111)
nhiệm
kỳ
Chủ tịch nước Việt Nam được bầu
trong thời hạn 5 năm và có thể
được bầu lại. (45)
Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo
nhiệm kỳ của Nghị viện. (46)
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của
Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính
phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc
hội khoá mới thành lập Chính phủ mới. (113)
(5 năm)
hình
thức
chọn
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà chọn trong Nghị viện
nhân dân và phải được hai phần
ba tổng số nghị viện bỏ phiếu
thuận.
Quốc hội: Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng
Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ; (7-84)
Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không
đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ
theo đa số tương đối.
Trong vòng một tháng trước khi
hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban
thường vụ phải triệu tập Nghị
viện để bầu Chủ tịch mới. (45)
Phó chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà chọn trong nhân
dân và bầu theo lệ thường.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét