Mặt khác, xu thế hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới tiến tới toàn
cầu hoá là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng
rộng và sâu nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trên toàn thế
giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích, công tác
quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý
thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, tạo môi trường thuận lợi đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế - xã
hội đất nước.
Để nhằm mục tiêu tăng thu cho Ngân sách, nâng cao năng lực quản lý
thuế, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ hành chính trong lĩnh vực thuế. Đồng
thời đáp ứng được yêu cầu về công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế thì việc xây
dựng hoàn thiện chính sách thuế nói chung và quản lý thu thuế đối với
DNVVN nói riêng là một đòi hỏi bức thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu
trên chúng tôi chọn đề tài : "Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình"
làm luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng quản
lý thu thuế đối với các DNVVN, tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch. Trên
cơ sở đó nhằm đề xuất các giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
Chi cục thuế Quảng Trạch nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và bổ sung các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý
thuế trong cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
2
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nhiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của
việc quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế
huyện Quảng Trạch đặt trong tổng thể vấn đề quản lý thu thuế, phí và lệ phí
trong toàn ngành thuế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong lĩnh vực
quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện
Quảng Trạch.
- Không gian: Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch từ năm 2006 - 2008,
đề xuất giải pháp quản lý thu thuế đối với DNVVN đến năm 2012.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống thực trạng công tác
quản lý thuế đối với các DNVVN tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, luận
văn sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
trong quá trình đổi mới kinh tế để phân tích thực trạng quản lý và thực hiện
chính sách thuế ở địa bàn nghiên cứu. Từ đó rút ra một số nhận xét và kiến
3
nghị đề xuất các giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế đối
với các DNVVN tại Chi Thuế huyện Quảng Trạch.
Phương pháp tiếp cận: xem xét, nghiên cứu dưới góc độ các quy trình
nghiệp vụ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, trong đó tập trung
vào các quy trình quản lý thuế hiện hành như quy trình quản lý DN, quy trình
kiểm tra thuế để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn
hoặc những tồn tại để nhằm đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong
tương lai.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu
4.2.1. Số liệu thứ cấp
Được thu thập từ các nguồn tài liệu, báo cáo của Chi Cục Thuế huyện
Quảng Trạch; Niên giám thống kê huyện Quảng Trạch; các báo cáo tài liệu
của các ban ngành huyện Quảng Trạch; thông tin đã được công bố trên các
giáo trình, báo, tạp chí, công trình và đề tài khoa học trong và ngoài nước.
4.2.2. Số liệu sơ cấp
Được tiến hành thu thập trên cơ sở các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh trên địa bàn và số lượng cán bộ công chức (CBCC) quản lý
thu thuế thuộc Chi Cục Thuế huyện Quảng Trạch. Cụ thể chọn 92 DNVVN
trong tổng số 197 DNVVN đang hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) trên
địa bàn huyện Quảng Trạch và 56 cán bộ công chức thuế trong tổng số 79
cán bộ công chức của Chi cục thuế huyện Quảng Trạch để tiến hành điều tra.
Phương pháp điầu tra bằng cách phát phiếu khảo sát đã được thiết kế
sẳn, nhằm lấy ý kiến của các DNVVN và của CBCC thuế về sự phù hợp của
nội dung chính sách thuế; thủ tục hành chính thuế
4.3. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
- Dùng phương pháp phân tổ thống kê để hệ thống hoá và tổng hợp tài
liệu theo các tiêu thức phù hợp với mục đích nghiên cứu.
4
- Việc xử lý và tính toán các số liệu, các chỉ tiêu nghiên cứu được tiến
hành trên máy tính theo các phần mềm Excel, SPSS và phần mềm tin học của
Tổng Cục Thuế.
4.4. Phương pháp phân tích
- Trên cơ sở các tài liệu đã được xử lý, tổng hợp và vận dụng các
phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế để đánh giá thực trạng
quản lý thu thuế đối với các DNVVN của cơ quan thuế; phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế.
- Phương pháp kiểm định sự bằng nhau của hai trị trung bình để so sánh
có sự khác biệt ý kiến đánh giá của hai nhóm đối tượng được điều tra về nội
dung chính sách thuế và công tác quản lý thu thuế.
- Phương pháp đồ thị và biểu đồ để phân tích đánh giá một cách khách
quan, khoa học về các nội dung nghiên cứu.
4.5. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Phương pháp chuyên gia: Để làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như đánh
giá thực trạng quản lý thu thuế đối với DNVVN hiện nay trên địa bàn huyện
Quảng Trạch, tác giả thu thập ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Chi cục thuế
huyện Quảng Trạch, giám đốc và kế toán một số doanh nghiệp để đưa ra các
kết luận một cách xác đáng, có căn cứ khoa học nhằm đề xuất giải pháp có sức
thuyết phục cao, mang tính khả thi phù hợp với thực tiễn địa bàn nghiên cứu.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm
Trên thực tế thuế đã tồn tại từ khi các Nhà nước hình thành, song các lý
luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối
khái niệm về thuế [33]. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh
đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này.
Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn
giản: “Để đạt được quyền lực công cộng đó, cần phải có những đóng góp của
những người công dân của nhà nước, đó là thuế” [1].
C.Mác đã viết “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước”; Ăng ghen
cũng đã viết “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của
công dân cho nhà nước, đó là thuế ” [44].
Theo Benjamin Franklin, một trong những tác giả của bản tuyên ngôn
độc lập nổi tiếng của nước Mỹ đã đưa ra một lời tuyên bố bất hủ trong lịch sử
thuế khoá: “Trong cuộc sống không có gì tất yếu, ngoài cái chết và thuế” [1]
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Trong cuốn từ điển của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan
Lowes cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập
của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu),
trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”. [1]
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu như sau:
6
“Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao
bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ,
mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc
dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do
hành vi vi phạm pháp luật”[2]
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế
cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật
các khía cạnh sau đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan
hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan
hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã
hội đặc biệt việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh
của Nhà nước xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà
nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ việc phân tích những quan niệm về thuế của thế giới và của nước ta
nêu trên, có thể nhận thức chung về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và pháp luật quy định. Khoản chuyển
giao thu nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu công cộng. Nguồn
thu về thuế không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân.
1.1.2. Bản chất, chức năng của thuế
1.1.2.1. Bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử,
thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình
thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có
của thuế. Những đặc điểm đó là:
7
Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ cơ
bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp; thuế là một phần thu
nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước; thuế là một
hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp [20].
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước thu thuế cũng là nhằm tạo ra một nguồn lực tập trung để chi phát triển
cơ sở hạ tầng, chi phúc lợi công cộng, chi văn hóa, giáo dục y tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng… Hiến pháp nước ta năm 1992, Điều 80 đã ghi rõ: “Công
dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo qui định pháp luật”. Tuy
nhiên, Nhà nước cần phải thu đúng thu đủ để đảm bảo chi cho các mục tiêu
trên, còn người nộp thuế thường muốn nộp thuế càng ít càng tốt. Do đó khi ý
thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân chưa cao thì tình trạng
trốn thuế, nợ thuế là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến công tác thuế luôn
gặp những khó khăn nhất định.
1.1.2.2. Chức năng của thuế
Chức năng của một sự vật hay đối tượng nào đó là sự thể hiện công
dụng vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế, chức năng phản ánh bản
chất sự tác động vốn có của nó, là phương thức đặc biệt biểu hiện những
thuộc tính vốn có cuả phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính
ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài
chính, nó biểu hiện những thuộc tính vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy
nhiên, thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng
riêng của mình bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Mặc dù chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức
năng của thuế, nhưng thông qua quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy thuế luôn thực hiện hai chức năng: chức năng huy động nguồn
lực tài chính cho nhà nước và chức năng điều chỉnh.
8
1.1.3. Hệ thống thuế, phân loại thuế và các yếu tố cấu thành một sắc thuế
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống thuế
Suy cho cùng, cơ sở nộp thuế đều bắt nguồn từ thu nhập, song do yêu
cầu của quá trình tái sản xuất, thu nhập vận động qua một chu trình kinh tế và
thay đổi hình thái biểu hiện của nó.
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập luân chuyển trong một vòng
khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền công này để mua
hàng hoá, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty lại dùng số tiền thu
được để trả lãi cho vốn đầu tư, tiền thuê đất đai, tiền công và những thành
phần này chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hoá, dịch vụ.
Chính sự biến đổi đa dạng này đã tạo ra khả năng đánh thuế của Chính
phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín. Trong dòng luân chuyển
đó nảy sinh các cơ sở khác nhau, do đó xuất hiện các hình thức thuế khác nhau.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau và việc xây dựng các loại thuế, phương
pháp thu nộp thuế được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định.
1.1.3.2. Phân loại thuế
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống
pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng
và quản lý hệ thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành
những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật
thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tuỳ thuộc
vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu
và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào cơ sở, mục đích
phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách
9
Nhà nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
+ Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một
phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, sử dụng dịch vụ thông qua việc
thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tính chất gián
thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với
nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ
do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người
tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu
nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ
người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế.
Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở
nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
- Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được
chia thành: Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế
giá trị gia tăng, thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế
đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài
nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của Ngân sách Nhà nước, thuế khác và
lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa
phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau
10
nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp
luật thuế [30].
1.1.3.3. Các yếu tố cơ bản cấu thành một sắc thuế
Khác với các hình thức động viên tài chính khác, thuế thực hiện chuyển
giao thu nhập dưới các hình thức biểu hiện cụ thể của mình bằng một sắc
thuế. Mỗi sắc thuế đều phải được quy định bằng một văn bản pháp luật và
được gọi là một luật thuế. Trong một luật thuế thông thường chứa đựng các
yếu tố cơ bản sau đây:
- Chủ thể chịu sự điều chỉnh của một luật thuế (Đối tượng nộp thuế):
Chủ thể chịu sự điều chỉnh của một luật thuế chỉ rõ khoản thuế đó do
chủ thể nào phải nộp. Luật thuế gọi chủ thể đó là đối tượng nộp thuế (ĐTNT).
Đối tượng nộp thuế theo luật định là thể nhân hoặc pháp nhân có trách
nhiệm phải nộp thuế cho Nhà nước theo luật pháp quy định. Đối tượng nộp
thuế không nhất thiết là đối tượng chịu thuế. Trong nhiều trường hợp đối
tượng nộp thuế cũng chính là đối tượng chịu thuế, khi trong sắc thuế đó người
nộp thuế không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác.
- Khách thể chịu sự điều chỉnh của luật thuế (Đối tượng chịu thuế):
Khách thể trong luật thuế chỉ rõ đối tượng được đưa ra làm cơ sở tính
thuế hay đối tượng chịu thuế. Trong luật thuế, người ta gọi khách thể là đối
tượng chịu thuế.
Do cơ sở thuế là thu nhập, hàng hoá hay tài sản, do đó đối tượng chịu
thuế cũng có thể là thu nhập, giá trị hàng hoá hoặc giá trị của tài sản. Mỗi một
luật thuế có một đối tượng chịu thuế riêng. Đối tượng chịu thuế có thể được
tính trên một đơn vị, trên một đơn vị vật lý hoặc một đơn vị giá trị.
- Mức thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng chịu thuế (Thuế suất):
Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị của
đối tượng chịu thuế. Trong ngôn ngữ luật thuế người ta gọi mức thuế phải nộp
là thuế suất hay định suất.
11
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét