Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Những cơ hội đối với hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam và giải pháp để khai thác cơ hội

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác ). Đây là bộ phận có tỷ
trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ
và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân.
- Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công: Gia công quốc tế
là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và
do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành
hai loại hình chủ yếu tuỳ theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình
độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường
thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng
khi trình độ phát triển ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia
công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kì gia công
thường rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó
được coi là một bộ phận trong hoạt động ngoại thương.
- Tái xuất khẩu và chuyển khẩu: Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến
hành nhập khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành nhập khẩu
sang một nước thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức
rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có
hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu
bãi, bảo quản
- Xuất khẩu tại chỗ: Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có thể chưa
vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động
xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, cho
khách du lịch quốc tế Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do
giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi
vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ.
2.2. Đặc điểm của thương mại quốc tế:
Việc làm rõ những đặc điểm cơ bản của thương mại quốc tế giúp cho việc xác
định rõ hơn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của thương mại quốc tế.
Một là, thương mại quốc tế là các mối quan hệ thoả thuận, tự nguyện giữa các
quốc gia độc lập, giữa các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Nó chỉ có thể phát
triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền, thực hiện nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng
có lợi thông qua các hợp đồng kinh tế với sự chấp nhận của các bên. Có thể phát triển
thương mại quốc tế giữa các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau nếu biết
đáp ứng và khai thác nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhau, đảm bảo sự cân bằng lợi
ích và giữ vững chủ quyền của các bên.
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Hai là, thương mại quốc tế diễn ra theo yêu cầu của các quy luật kinh tế cho nên
cần tôn trọng và vận dụng thành thạo các quy luật này ( ví dụ quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh ) để phát triển thương mại quốc tế. Quyền lợi quốc gia
và quyền lợi dân tộc chỉ có thể được xử lý một cách hài hòa và phù hợp trên cơ sở vận
dụng đúng đắn yêu cầu của các quy luật thị trường.
Ba là, thương mại quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý khác nhau,
của các chính sách, luật pháp, thể chế của từng quốc gia cũng như của các điều ước
quốc tế. Khi tổ chức các hoạt động thương mại quốc tế, tất yếu diễn ra sự gặp gỡ, va
chạm giữa các hệ thống quản lý cũng như giữa các chính sách, luật pháp và thể chế của
từng quốc gia. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp là một mặt phải thực hiện đúng các
yêu cầu của luật pháp và chính sách trong nước, mặt khác cũng phải biết tôn trọng và
vận dụng phù hợp với yêu cầu của luật pháp và chính sách của các quốc gia có liên
quan. Chính vì vậy, việc am hiểu luật pháp của nước mình và cả của quốc gia có liên
quan là hết sức cần thiết, đồng thời cần phải từng bước nâng cao tính tương thích giữa
hệ thống luật pháp trong nước với luật pháp và thông lệ quốc tế. Việc tích cực đóng
góp vào xây dựng các điều ước quốc tế là một yêu cầu quan trọng trong việc phát triển
các quan hệ thương mại quốc tế.
Bốn là, thương mại quốc tế được vận hành gắn liền với sự gặp gỡ và chuyển đổi
giữa các loại đồng tiền. Sự phát triển của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong một quốc
gia được mở rộng ra phạm vi quốc tế. Quan hệ tiền tệ quốc tế vừa là phương tiện phục
vụ cho việc phát triển các quan hệ thương mại quốc tế nói chung, vừa tuân theo quy
luật vận động riêng của thị trường tiền tệ quốc tế. Bởi vậy, vấn đề tỷ giá hối đoái, cán
cân thanh toán quốc tế và việc quản lý ngoại hối trở thành những nội dung quan trọng
trong quá trình phát triển các quan hệ thương mại quốc tế. Trong điều kiện quốc tế hóa
mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, khủng hoảng tài chính - tiền tệ trở thành vấn đề đáng
quan tâm trong chính sách của các chính phủ cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế.
Năm là, các khoảng cách về không gian - địa lý tác động trực tiếp đến quá trình
phát triển các quan hệ thương mại quốc tế vì nó ảnh hưởng đến thời gian và chi phí vận
tải. Những điều này ảnh hưởng đáng kể đến quá trình tổ chức, triển khai các hoạt động
thương mại quốc tế, từ khâu nghiên cứu thử nghiệm đến khâu sản xuất và tiêu thụ. Bởi
vậy, vấn đề về khoảng cách không gian - địa lý cần phải được chú ý thoả đáng khi
tham gia vào phân công lao động quốc tế, tiến hành chuyên môn hóa và hợp tác hóa, tổ
chức hoạt động đầu tư cũng như xâm nhập thị trường.
Trong điều kiện hiện nay, thương mại quốc tế còn có thêm một số đặc điểm
mang tính chất thời sự sau:
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Một là, quy mô thương mại mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu (Tổng kim
ngạch của thế giới về hàng hóa và dịch vụ đạt khoảng 10.000 tỷ USD (2004), số lượng,
chủng loại mặt hàng, dịch vụ đa dạng, thương mại điện tử phát triển mạnh).
Hai là, phạm vi thương mại được mở rộng trên toàn cầu với khoang 6 tỷ người
(WTO chiếm 95% thương mại toàn cầu), tạo lợi thế theo quy mô và có khả năng thu
lợi rất lớn.
Ba là, cạnh tranh thương mại diễn ra gay gắt (giá cả, chất lượng, dịch vụ, kiểu
dáng, hậu mãi ), bảo hộ thương mại tinh vi (rào cản kỹ thuật, thương hiệu, chống bán
phá giá, tìn báo kinh doanh, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ )
Bốn là, tự do hóa thương mại là xu hướng vận động cơ bản của thương mại thể
hiện ở quá trình giảm thiểu và nới lỏng dần các rào cản thương mại để đạt tới một nền
thương mại tự do, minh bạch và công bằng.
Năm là, các nguyên tắc tự do hóa thương mại (WTO) trở nên hết sức chặt chẽ.
Như vậy, việc xem xét và nghiên cứu những đặc điểm trên, nhất là năm đặc
điểm sau cùng là rất quan trọng, có ý nghĩa sống còn, quyết định thành bại trong hoạt
động thương mại quốc tế của các quốc gia và các tổ chức kinh tế.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thương mại quốc tế:
- Điều kiện tự nhiên.
- Trình độ phát triển kinh tế.
- Hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế, tập quán và cam kết quốc tế.
- Hệ thống chính trị.
- Lợi thế so sánh quốc gia.
- Các nguồn lực phát triển.
- Chính sách tài chính - tiền tệ.
- Trình độ nghiệp vụ và kỹ năng của đội ngũ cán bộ.
- Tình trạng cạnh tranh và khả năng cạnh tranh quốc gia
2.4.Vai trò của thương mại quốc tế:
- Đem lai sự thay đổi to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội.
- Giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn
hiệu quả. Qua đó nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng khối lượng. số lượng, tỷ trọng
những ngành sản xuất các mặt hàng mà quốc gia có ưu thế, giảm các ngành không có
ưu thế. Qua đó đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa, giúp cho việc phân bổ và sử dụng
các nguồn lực của đất nước một cách tối ưu nhất.
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
- Đem lại nguồn thu đáng kể cho đất nước từ xuất khẩu và các dịch vụ thương
mại, cho ngân sách Nhà nước từ thuế, cho các bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động
thương mại quốc tế.
- Nâng cao năng lực kinh doanh của các công ty. Hình thành nên một thế hệ
doanh nhân cũng như một thế hệ nguời lao động mới với những phẩm chất vượt trội
đáp ứng được yêu cầu của thời đại.
- Tiếp thu được những thành tựu kinh tế, khoa học - công nghệ của thế giới,
giúp cho quá trình đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế đất nước.
- Làm thị trường hàng hóa trong nước phong phú, giá cả cạnh tranh đem lại lợi
ích to lớn cho người tiêu dùng và xã hội.

II. CƠ HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG M ẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm cơ hội:
Cơ hội có thể được hiểu tương đương như thuật ngữ “khả năng tốt” trong triết học.
Do vậy có thể hiểu cơ hội là cái “tốt đẹp” (tốt đẹp theo cách hiểu, theo mong muốn của
chủ thể tiếp nhận) hiện chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp. Điều
kiện thích hợp ở đây bao gồm điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan.
Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế, cơ hội không chỉ hoàn toàn là khả năng tốt.
Nó chỉ là khả năng tốt khi ta biết tận dụng và biến nó thành hiện thực, nếu để các đối
thủ khác tận dụng được thì nó lại trở thành khả năng xấu.
Để có thể nhận biết được cơ hội, chúng ta phải nhận thức được bản chất và
những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng, chúng ta có thể phán đoán được sự
vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo hướng nào, nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được
đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của sự vật, hiện tượng. Điều này có ý
nghĩa phương pháp luận rất lớn trong việc tìm ra những cơ hội trong thương mại quốc
tế. Muốn thấy được cơ hội trong thương mại quốc tế, phải hiểu được bản chất của
thương mại quốc tế cũng như phải nhận thức được vị trí, khả năng của mình trong hệ
thống thương mại đó. Một trong những cơ sở giúp cho việc nhận thức là các lý thuyết
thương mại quốc tế.
2. Các lý thuyết thương mại quốc tế:
2.1. Lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế:
* Chủ nghĩa trọng thương: Quan điểm cơ bản là coi sự giàu có của một quốc
gia thể hiện ở khối lượng vàng và kim khí tích lũy được. Một quốc gia nên coi trọng
xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, Chính phủ cần đóng vai trò quan trọng để đạt được
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
các mục tiêu bằng các rào cản, biện pháp và quy định. Quan điểm này có ưu điểm là
sớm nhận thức được tầm quan trọng của thương mại và vai trò của Nhà nước trong
điều tiết hoạt động thương mại. Tuy nhiên nó cũng chứa đựng rất nhiều hạn chế, chẳng
hạn việc coi vàng bạc là hình thức của cải duy nhất của các quốc gia, đánh đồng mức
cung ứng tiền tệ cao với sự thịnh vượng của quốc gia, nhìn nhận thương mại quốc tế
như một trò chơi có tổng lợi ích bằng không (tức là chỉ một bên có lợi mà thôi), là
những quan điểm hoàn toàn sai lầm.
* Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Adam Smith cho rằng thương mại
tự do có lợi cho tất cả các quốc gia, và chính phủ nên thực hiện chính sách “không can
thiệp” vào hoạt động thương mại quốc tế nói riêng, và các hoạt động kinh tế nói chung.
Ông cho rằng thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực thế giới
có hiệu quả hơn, từ đó tạo ra lợi ích cho từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán ;
một quốc gia nên xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối (chi phí sản xuất thấp
hơn tuyệt đối so với quốc gia khác, chi phí sản xuất được tính bằng hao phí lao động,
chưa tính vốn, khoa học – công nghệ, thương hiệu )
* Lý thuyết lợi thế so sánh của Davi Ricardo: Tư tưởng chính của lý thuyết này
là một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối vẫn có thể tham gia vào thương mại nếu dựa
vào lợi thế so sánh. Mặt hàng có lợi thế so sánh là mặt hàng có chi phí sản xuất thấp
hơn tương đối so với các mặt hàng khác.
Nhìn chung, có thể thấy các lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối
đều nhấn mạnh yếu tố cung, coi quá trình sản xuất trong mỗi nước là yếu tố quy định
thương mại quốc tế. Trong các lý thuyết này giá cả từng mặt hàng không được biểu thị
bằng tiền, mà được tính bằng số lượng hàng hóa khác, và thương mại giữa các nước
được thực hiện theo phương thức hàng đổi hàng. Những giả định này khiến cho sự
phân tích trở nên đơn giản hơn nhưng đồng thời vẫn giúp chỉ ra được nguồn gốc sâu xa
của thương mại quốc tế. Về mặt chính sách, các học giả cổ điển cho rằng thương mại
tự do là công cụ để mỗi nước cũng như thế giới nói chung, gia tăng sự thịnh vượng. Sự
can thiệp của Nhà nước chỉ dẫn đến làm giảm lợi ích tiềm năng từ thương mại. Quá
trình chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi chỉ có thể đem lại lợi ích tối đa nếu như
nguồn lực được di chuyển trong phạm vi quốc gia
Theo đánh giá của các nhà kinh tế, hạn chế cơ bản nhất của lý thuyết cổ điển về
thương mại quốc tế là ở chỗ nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết về giá trị lao
động, theo đó lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và đồng nhất trong tất cả các ngành
sản xuất. Do tính chất phi thực tế của học thuyết về giá trị lao động cho nên lý thuyết
lợi thế so sánh có nguy cơ bị bác bỏ. Tuy nhiên, vào năm 1936, G. Haberler đã trình
bày lại lý thuyết này trên cơ sở vận dụng lý thuyết chi phí cơ hội.
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
* Lý thuyết chi phí cơ hội: Theo Haberler, chi phí cơ hội của mặt hàng X là số
lượng mặt hàng Y cần được cắt giảm để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa X. Trong
hai quốc gia thì quốc gia nào có chi phí cơ hội của X thấp hơn thì sẽ có lợi thế so sánh
về mặt hàng này. Về thực chất chi phí cơ hội chỉ là cách phát biểu khác của giá cả hàng
hóa tương quan.
* Lý thuyết Heckscher-Ohlin: Định lý H-O phát biểu “Một quốc gia sẽ xuất
khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu
tố sản xuất dồi dào ở quốc gia đó. Dựa trên lý thuyết H-O thì có thể hình dung rằng
những nước giàu tài nguyên thiên nhiên sẽ là những nước xuất khẩu chúng trên thị
trường. Chẳng hạn như Việt Nam xuất khẩu dầu thô, nông sản, các mặt hàng sử dụng
nhiều lao động
Ngoài định lý H-O, lý thuyết H-O còn có một số mệnh đề bổ sung khác liên
quan đến mối liên hệ giữa mức độ trang bị các yếu tố, thương mại quốc tế, giá cả hàng
hóa và giá cả các yếu tố, tác động của sự gia tăng mức cung các yếu tố, và vấn đề phân
phối thu nhập:
- Định lý cân bằng các yếu tố sản xuất: Thương mại tự do sẽ làm cho giá cả các
yếu tố sản xuất có xu hướng trở nên cân bằng, và nếu hai quốc gia tiếp tục sản xuất cả
hai mặt hàng (tức thực hiện chuyên môn hóa không hoàn toàn) thì giá cả các yếu tố sẽ
thực sự trở nên cân bằng.
- Định lý Rybezynski: Tại mức giá hàng hóa tương quan không đổi thì sự gia
tăng mức cung của một yếu tố sản xuất sẽ làm tăng sản lượng mặt hàng sử dụng nhiều
yếu tố đó, và làm giảm sản lượng mặt hàng kia.
- Định lý Stolper – Samuelson: Nếu giá tương quan của một mặt hàng nào đó
tăng lên thì giá tương quan của yếu tố được sử dụng nhiều một cách tương đối để sản
xuất ra mặt hàng đó sẽ tăng lên, còn giá tương quan của yếu tố kia sẽ giảm xuống.
2.2. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế
* Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô: Sản xuất được coi là có hiệu
quả nhất khi được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ
nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn.
* Lý thuyết về khoảng cách công nghệ: Một quốc gia sẽ có lợi thế tuyệt đối tạm
thời mặt hàng mà minh phát minh, sáng chế ra. Lý thuyết này có thể giải thích cho hai
dạng thương mại. Thứ nhất, cả hai quốc gia có tiềm năng công nghệ như nhau nhưng
mỗi nước tiên phong trong một lĩnh vực thì vẫn có thể hình thành quan hệ thương mại.
Thứ hai, nếu một nước tỏ ra năng động hơn về công nghệ so với nước kia thì thương
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
mại quốc tế sẽ diễn ra theo chiều hướng nước thứ nhất thường xuất khẩu những mặt
hàng mới và phức tạp để đổi lấy những mặt hàng đã được chuẩn hóa từ nước thứ hai.
* Lý thuyết vòng đời sản phẩm: Các nhân tố cần thiết cho việc sản xuất một sản
phẩm mới sẽ thay đổi tuỳ theo vòng đời của sản phẩm đó.
Ngoài ra còn một số lý thuyết khác như lý thuyết thương mại liên quan đến cầu,
lý thuyết về các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Rostow, lý thuyết về cú huých lớn từ
bên ngoài, lý thuyết vòng luẩn quẩn, lý thuyết thương mại mới, lý thuyết về khả năng
cạnh tranh quốc gia, lý thuyết không gian tiền tệ tối ưu
Tóm lại, việc nghiên cứu những lý thuyết trên là tiền đề, định hướng cho sự
nhận thức đúng đắn thực tiễn sinh động của thương mại quốc tế, nếu biết đánh giá
đúng khả năng của quốc gia mình thì sẽ chọn được cho mình những cơ hội để tham gia
thành công vào thương mại quốc tế.
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
VÀ CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM
I. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM:
1. Những nét tổng quát:
1.1. Xuất nhập khẩu của Việt Nam trước năm 2006:
Nói đến hoạt động thương mại quốc tế thì điều thu hút được sự quan tâm nhiều
nhất chính là sự lưu chuyển hàng hóa - dịch vụ của Việt Nam với phần còn lại của thế
giới. Điều này chủ yếu được thể hiện thông qua cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Một số thông tin về xuất nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2005 trở về trước được thể
hiện trong phần Phụ lục, sau đây là một số nhận xét:
Thứ nhất, theo tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa các giai đoạn 1990-1995 (là
giai đoạn thương mại quốc tế của Việt Nam chưa phát triển), giai đoạn 1996-2000 (là
giai đoạn Việt Nam bắt đấu tham gia vào các tổ chức và diễn đàn của khu vực như
ASEAN, APEC) và giai đoạn 2001-2006 (thương mại quốc tế đã có sự khởi sắc), có
thể thấy giá trị xuất nhập khẩu tăng lên qua từng năm, càng về sau tăng càng mạnh.
Mức tăng này gắn liền với mức độ tham gia hoạt động thương mại quốc tế của Việt
Nam, điều này cho thấy được tầm quan trọng của thương mại quốc tế.
Thứ hai, số lượng các mặt hàng ngày càng nhiều, các hàng không chỉ tăng về số
lượng mà còn tăng cả về mặt giá trị.
Thứ ba, trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thì xuất khẩu vào
thị trường APEC là lớn nhất, tiếp đến là thị trường ASEAN, tiếp đến là EU, OPEC và
các thị trường khác. Điều này được lý giải là do Việt Nam đã gia nhập ASEAN và
APEC trước, có được sự thông hiểu trong thương mại quốc tế đối với các thị trường
này ; hai đối tác lớn nhất của Việt Nam và cũng là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới là
Hoa Kỳ và Nhật là thành viên của APEC ; thêm vào đó, do thuận lợi về các yếu tố khu
vực nên mức độ tự do mậu dịch của các thị trường này cũng cao hơn.
Thứ tư, trong cơ cấu giá trị các mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam theo
danh mục tiêu chuẩn ngoại thương thì xuất khẩu chủ yếu là hàng thô hoặc mới qua sơ
chế, nhập khẩu thì ngược lại, chủ yếu là hàng chế biến hoặc đã qua tinh chế.
Thứ năm, trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện đất nước, Việt Nam đã có một số sản phẩm phát triển mạnh, chiếm
vị trí trong nhóm xuất khẩu hàng đầu thế giới. Những mặt hàng này đa phần là những
mặt hàng tận dụng được lợi thế của Việt Nam về điều kiện tự nhiên (khoáng sản; nông,
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
thuỷ sản), về giá lao động (giày da, dệt may) và về vị trí trong việc tham gia chuỗi giá
trị toàn cầu (gia công, lắp ghép, sản xuất máy móc nhỏ, phụ tùng )
Thứ sáu, nhờ thương mại quốc tế, Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế phù hợp, tập trung, chuyên môn hóa vào một số ngành có lợi thế để sản xuất sản
phẩm xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Tỷ trọng của các ngành này trong nền kinh
tế ngày càng tăng. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã lựa chọn những mặt hàng bất lợi
thế để nhập khẩu (chủ yếu là hàng tiêu dùng). Điều này giúp cho Việt Nam sử dụng
hiệu quả hơn các nguồn lực của đất nước.
Thứ bảy, qua hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam đã thu hút được rất
nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thường là khu vực
hoạt động hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu, đóng góp
không nhỏ vào giá trị xuất khẩu của đất nước. Tỷ trọng của khu vực này trong nền kinh
tế Việt Nam ngày càng tăng cả về chất và lượng.
Thứ tám, giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ so với GDP (%) ngày càng
tăng, điều đó chứng tỏ quá trình tham gia thương mại quốc tế của Việt Nam không chỉ
tăng về lượng mà còn biến đổi cả về chất.
Thứ chín, qua hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam đã học được rất nhiều
kinh nghiệm trong quản lý, kinh doanh, tiếp thu được những thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến để ứng dụng vào sản xuất, điều đó thể hiện ở giá trị gia tăng trong sản
phẩm xuất khẩu ngày càng tăng.
1.2. Xuất nhập khẩu của Việt Nam 10 tháng đầu năm 2006
1.2.1. Xuất khẩu
Trong 10 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng 24,2%,
đây là một điểm sáng của nền kinh tế, là kết quả của những nỗ lực rất lớn của các
doanh nghiệp và qua đó có thể khẳng định, nền sản xuất hàng hóa đang phát triển và
nâng cao được khả năng cạnh tranh, tạo đà cho những bước đi vững chắc trong năm
tới, khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Mười tháng qua, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may, một trong những sản
phẩm xuất khẩu chủ lực, đã đạt 4,969 tỷ USD, tăng khoảng 28% so với cùng kỳ năm
ngoái. Kim ngạch dệt may đã đạt hơn 90% kế hoạch xuất khẩu của cả năm và có khả
năng đạt kim ngạch 5,8-5,9 tỷ USD nếu khai thác tốt hạn ngạch dệt may còn lại vào thị
trường Hoa Kỳ trong 2 tháng cuối năm.
Trái với dự đoán khó khăn của ngành da giày khi Liên minh châu Âu (EC) điều
tra và áp đặt thuế bán phá giá đối với mặt hàng giày mũ da vào thị trường này, kim
ngạch xuất khẩu vẫn tăng trưởng tốt. Đây là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành da
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
giày và EU cũng là thị trường chủ lực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước đã
nhanh chóng chuyển hướng mặt hàng giày thể thao mũ da sang các thị trường khác,
đặc biệt là thị trường châu Mỹ.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến nay đã có 8 ngành xuất khẩu đạt trên 1
tỷ USD. Ngoài hai ngành nói trên, xuất khẩu dầu thô đạt 7,114 tỷ USD, thủy sản: 2,753
tỷ USD, sản phẩm gỗ: 1,531 tỷ USD, sản phẩm điện tử-vi tính: 1,414 tỷ USD, gạo:
1,21 tỷ USD, cao su: 1,09 tỷ USD ; 4 mặt hàng xuất khẩu trên 500 triệu USD như dây
điện, hàng thủ công mỹ nghệ, than đá, cà phê. Trong đó, kim ngạch cà phê có khả năng
đạt trên 1 tỷ USD trong năm nay (đến nay đã đạt 880 triệu USD) nhờ cà phê Việt Nam
đang vào thời vụ thu hoạch và giá xuất khẩu cà phê thế giới đang ở mức cao.
Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng đã đạt 32,872 tỷ USD, tăng 24,2%
(cùng kỳ năm ngoái tăng 21,9%), bằng 87,1% kế hoạch xuất khẩu cả năm. Trong đó có
2 mặt hàng đã đạt và vượt kế hoạch là than đá và chè.
Ngành công nghiệp của cả nước trong 10 tháng qua cũng tăng khá ấn tượng, tạo
khối lượng sản phẩm trị giá 411.627 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ và cũng là
mức tăng cao so với mấy năm gần đây. Với tốc độ tăng trưởng này, chỉ tiêu còn lại
trong hai tháng cuối năm là 5,48 tỷ USD không quá khó khăn để hoàn thành.
Trong các thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam thì Mỹ đang là thị
trường xuất khẩu số 1; xu hướng này càng trở nên rõ rệt hơn khi Việt Nam trở thành
thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tình hình này hàm chứa cả yếu tố
thuận và nghịch, cả lợi thế so sánh lẫn khó khăn, thách thức đối với doanh nghiệp Việt
Nam. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, trong 5 tháng đầu năm 2006, hàng
Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đạt tổng kim ngạch khoảng 3 tỷ USD, bằng gần nửa tổng
kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ cả năm 2005, hay chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước, trong khi, xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 2,104 tỷ USD, sang
Trung Quốc đạt 1,19 tỷ USD, sang Australia đạt 1,12 tỷ USD… Đây không phải là
hiện tượng mới, mà đã hình thành một cách vững chắc từ năm 2003 đến nay. Chẳng
hạn, năm 2004, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt gần 5 tỷ USD, thì với thị trường thứ
2 là Nhật Bản đạt hơn 3,5 tỷ USD; tương tự, năm 2005, hai con số này là 5,931 tỷ USD
và 4,411 tỷ USD, chênh lệch giữa 2 thị trường số 1 và số 2 vẫn ở mức khoảng 1,5 tỷ
USD.
Bộ Thương mại dự báo, với kết quả xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm cộng với
kết quả xuất khẩu quý IV thường đạt cao nên xuất khẩu năm 2006 có thể vượt mục tiêu
đề ra (38,44 tỷ USD). Trong 10 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của cả nước là
32,872 tỷ USD, tăng 24,2% (cùng kỳ năm ngoái tăng 21,9%), bằng 87,1% kế hoạch
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét