Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
- Theo giáo trình Ngân hàng thương mại của PGS.TS. Phan Thị
Thu Hà: “ Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi.”
Rủi ro tín dụng gắn với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, có
quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại đó là hoạt động tín dụng. Khi
thực hiện một hoạt động tài trợ cho các dự án đầu tư, ngân hàng luôn cố gắng
phân tích các yếu tố của người vay, của dự án sao cho độ an toàn cao nhất. Và
nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên,
không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác tất
cả các vấn đề có thể xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể
bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Một số nhóm nguyên nhân có thể đưa ra ở
đây là :
1.2.2. Các nguyên nhân rủi ro tín dụng:
1.2.2.1. Những nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô:
* Môi trường chính trị: rủi ro này bao gồm các bất ổn tài chính và
bất ổn chính trị.
Có thể liệt kê một số rủi ro chính trị chính sau đây:
- Rủi ro thuế: Sự thay đổi về thuế đã làm cho dòng tiền hàng năm
của dự án bị thay đổi từ đó NPV và IRR của các dự án bị thay đổi theo, nguồn
trả nợ của dự án từ đó cũng bị ảnh hưởng.
- Hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại khác làm
giảm sản lượng hoặc tăng chi phí của các dự án. Ví dụ: thuế nhập khẩu thép
tăng lên làm tăng chi phí nguyên vật liệu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng của
dự án.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Chính sách tuyển dụng lao động: những thay đổi về quản lý và
tuyển dụng lao động như thay đổi quy định về mức lương tối thiểu, chính sách
với lao động nữ, hạn chế lao động nước ngoài … đều ảnh hưởng tới hiệu quả
của dự án đầu tư cũng như năng trả nợ của dự án.
- Kiểm soát ngoại hối: hạn chế chuyển tiền ra nước ngoài ảnh
hưởng tới hoạt động cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng như
quyền lợi của các nhà đầu tư.
- Lãi suất: Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất để kiểm soát
lạm phát có thể làm cho hoạt động đầu tư tăng lên hoặc giảm đi.
- Độc quyền: Sự độc quyền kinh doanh của Nhà nước ở một số
lĩnh vực có thể làm hạn chế đầu tư vào các bộ phận khác trong xã hội và
thường dẫn đến sự kém hiệu quả trong đầu tư.
- Môi trường, sức khỏe và an toàn: những quy định liên quan đến
kiểm soát chất thải, quy trình sản xuất để bảo vệ sức khỏe cộng đồng có thể
làm hạn chế nhiều dự án cũng như làm tăng chi phí của các dự án.
- Quốc hữu hóa. VD năm 2007 ở Cuba đã đưa ra việc quốc hữu
hóa các tổ chức kinh tế.
* Môi trường kinh tế:
Bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng đều chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xã hội. Môi trường kinh tế không
thuận lợi sẽ làm cho các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, mỗi đồng vốn
không phát huy được hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay cuả dự
án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro cho các khoản cho vay của ngân hàng. Trong
một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất, tiêu dùng của xã hội
còn lớn thì hoạt động sản xuất còn có nhiều điều kiện tốt để phát triển. Nhưng
một nền kinh tế bị khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, đầu
tư bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi vốn tín dụng của ngân
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
hàng . Không chỉ giới hạn trong môi trường kinh tế của một nước mà các tác
động tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhất là khi quan hệ kinh tế quốc
tế được mở rộng.
* Môi trường và xã hội:
Môi trường và xã hội là nhân tố lớn ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng. Môi
trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả nhưng không bị chi
phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro do môi trường và xã hội gây ra
như: Rủi ro về những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và
người dân xung quanh, dẫn đến dự án phải tốn nhiều chi phí hơn cho việc xử
lý chất thải, thậm chí dự án có thể bị dừng hoạt động. Rủi ro có thể xảy ra khi
thị hiếu của xã hội thay đổi. Ví dụ như: do dân trí nâng cao, người dân nhận
thấy rằng các thức ăn công nghiệp thực sự không tốt cho sức khỏe, họ chuyển
sang dùng những thực phẩm có nguồn gốc từ tự nhiên. Do vậy, những thực
phẩm đóng hộp và những thực phẩm như gà công nghiệp, cá nuôi đều bị giảm
nhu cầu, giá bán hạ, những dự án sản xuất những mặt hàng trên trở nên thua
lỗ. Rủi ro cũng có thể xảy ra khi đạo đức của xã hội thay đổi.
* Nguyên nhân bất khả kháng: Ngoài các nguyên nhân khách quan
trên, rủi ro tín dụng còn chịu tác động của các nhân tố khác như: thiên tai,
chiến tranh, địch họa… Những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của
người vay lẫn người cho vay. Những nhân tố này có thể xảy ra bất ngờ, tác
động tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều
người vay với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc
phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, dự án có thể bị tổn
thất song vẫn đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ gốc và lãi.
Tuy nhiên, khi các tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với dự
án là nặng nề thì khả năng trả nợ của dự án ít nhiều bị suy giảm. Ví dụ: một
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trận động đất lớn xảy ra làm phá hủy toàn bộ cơ sở vật chất của một nhà
máy.
1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía dự án.
Nguyên nhân từ phía dự án đầu tư cho vay là một trong những nguyên
nhân chính, điển hình gây ra rủi ro tín dụng. Theo thống kê cho thấy, khả
năng xảy ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía dự án là phổ biến nhất bởi dự án
mà đại diện là chủ đầu tư là người trục tiếp sử dụng vốn vay. Nguyên nhân từ
phía dự án có thể xem xét trên các mặt sau:
* Dự án bị thua lỗ dẫn đến mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân có thể do khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh,
điều hành dự án, thực hiện dự án và vận hành dự án không tốt, do trình độ yếu
kém của khách hàng trong việc dự đoán các vấn đề về kinh doanh như:
- Rủi ro trong quá trình xây dựng và hoàn thành công trình: do khả
năng quản lý của chủ đầu tư kém nên dẫn đến một trong các rủi ro sau:
+ Chi phí xây dựng vượt quá dự toán.
+ Công trình xây dựng không đảm bảo các yêu cầu của dự án.
+ Hoàn thành không đúng thời hạn.
+ Không giải tỏa được dân, phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dự án.
- Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán: do dự đoán ban đầu về
thị trường của dự án không chính xác nên dự án có thể rơi vào một trong só
các tình trạng sau: cầu không đủ, sản lượng bán ra nhỏ hơn công suất của dự
án, giá bán thấp hơn dự kiến ban đầu…dẫn đến doanh thu của dự án thấp,
không trang trải đủ cho các chi phí, không đảm bảo được khả năng trả nợ cho
ngân hàng.
- Rủi ro về cung cấp đầu vào:
Đầu vào của dự án bao gồm nguyên vật liệu, vốn, lao động, máy móc
thiết bị… do chủ quan cảu người lập dự án lúc đầu mà có thể dẫn đến tình
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trạng khi dự án đi vào giai đoạn vận hành khai thác thì nguồn cung nguyên
vật liệu của dự án lại không đáp ứng được công suất của dự án. Rủi ro cũng
có khể xảy ra khi dự đoán về giá cả, chất lượng nguyên vật liệu lúc đầu không
còn chính xác. Ví dụ: dự án được lập vào năm 2007 khi mà giá vật liệu thép
mới chỉ là 10 triệu đồng/ tấn, nhưng đến năm 2008 khi đi vào thi công xây
dựng dự án thì giá nguyên vật liêu thép tăng lên 16 triệu đồng/1tấn. Tất cả
những rủi ro do dự đoán không chính xác về nguồn cung cấp đầu vào trên đều
gây khó khăn tới việc vận hành dự án cũng như thanh toán các khoản nợ.
- Rủi ro về kỹ thuật và vận hành: Khi các tiện ích ( dây chuyền,
thiết bị, hệ thống điều hành…) của dự án không thể vận hành và bảo dưỡng ở
mức độ phù hợp với thiết kế ban đầu. Ví dụ: Một công nghệ đặc biệt của dự
án được nhập về từ châu Âu, nơi có khí hậu lạnh và khô, khi về tới Việt Nam
do khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao nên các thông số ban đầu cảu công
nghệ đã bị thay đổi, không thể vận hành như ở nơi nhập công nghệ. Rủi ro
trên sẽ dẫn đến dự án phải tốn thêm chi phí để bảo dưỡng hoặc điều chỉnh lại
công nghệ cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, thậm chí có thể dẫn tới bỏ
hoàn toàn công nghệ. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng trả nợ
của dự án.
* Khách hàng cố tình không tuân thủ các điều kiện trong hoạt động
vay vốn, cố tình lừa đảo ngân hàng.
Không ít khách hàng để đạt được mục tiêu vay vốn của mình đã tìm
mọi cách để đối phó với ngân hàng như cung cấp thông tin không chính xác,
giả tạo hồ sơ, hợp đồng mua bán vòng vo, mua chuộc cán bộ tín dụng nhằm
vay vốn ngân hàng. Nhiều chủ đầu tư còn lập dự án ảo để vay vốn của ngân
hàng sau đó sử dụng số tiền vay vốn đó vào mục đích khác. Thậm chí, nhiều
dự án kinh doanh có lãi song không chịu trả nợ ngân hàng đúng hạn, chây ỳ
với kỳ vọng quỵt nợ hoặc có thể sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Đây là
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín
dụng, nó biểu hiện một hành động có chủ ý xấu của người vay đã được tính
toán, chuẩn bị từ trước nhằm chiếm đoạt tiền vay, loại nguyên nhân này được
coi là rủi ro về tư cách đạo đức của người vay.
Rủi ro từ phía dự án cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và là chủ yếu
trong hoạt động tín dụng hiện nay. Việc phòng tránh cũng rất khó khăn, phức
tạp vì khách hàng của ngân hàng rất đa dạng, trình độ khác nhau, kinh doanh
trong nhiều lĩnh vực do vậy ngân hàng cần nâng cao chất lượng công tác thẩm
định dự án đầu tư trước khi quyết định cho vay, tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện khoản vay của các chủ đầu tư và đa dạng hóa đầu tư
nhằm phân tán bớt rủi ro.
1.2.2.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Thứ nhất, rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế,
chính sách của ngân hàng còn chưa phù hợp.
Chính sách tín dụng phản ánh cưỡng lĩnh tài trợ của ngân hàng đó và
trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng,
tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung
trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng và
có thể tạo nhiều rủi ro. Chẳng hạn, ngân hàng vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt
động tín dụng quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn gia tăng. Ngược lại,
chính sách khách hàng không đa dạng, dẫn đến tập trung tài trợ cho một số
khách hàng, lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi mà “bỏ trứng tất cả vào
một giỏ”.
Thứ hai, bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu
kém. Ngân hàng thiếu một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản
lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc các ngành nghề, địa
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự hợp tác
giữa ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và
chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro tín
dụng. Thậm chí một số ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không
thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng và điều đó đã dẫn đến việc tìm hiểu
khách hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn.
Chính vì vậy, ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc họ có sử dụng
khoản vay đúng mục đích hay không vì chưa có thông tin đầy đủ. Nếu thiếu
một trong các yêu cầu đó thì ngân hàng sẽ không thể có được những quyết
định phù hợp, có thể dẫn đến việc ngân hàng sẽ rót vốn vào những nơi thiếu
tin cậy.
Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn yếu kém, lỏng lẻo. Nhiều ngân
hàng còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy
trình chưa nghiêm túc, kém hiệu lực, thậm chí có những sai phạm.
Thứ ba, sự yếu kém về trình độ nghiệp vụ cũng như tư cách đạo đức
của cán bộ tín dụng ngân hàng. Điều này được thể hiện:
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực, nghiệp vụ, không có
khả năng phân tích, thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do
công tác thông tin vừa yếu, vừa thiếu. Ngân hàng không có đủ các số liệu
thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án,
thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh.
Việc cán bộ tín dụng thiếu năng lực còn dẫn đến tình trạng không phát hiện
được những sai sót về mặt pháp lý trong hồ sơ xin vay của khách hàng, hay
định giá tài sản đảm bảo không hợp lý có thể gây ra những tổn thất cho ngân
hàng khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc cố tình gán tài sản đó cho
ngân hàng. Sự yếu kém và lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám
sát việc thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân rất quan trọng dẫn
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
đến việc không phát hiện kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng
đúng mục đích hoặc hành vi lừa đảo của khách hàng.
Bên cạnh vấn đề là thiếu và yếu năng lực, đôi khi một bộ phận cán bộ
ngân hàng yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi,
tham ô, nhaanh hối lộ, cố tình cho vay sai nguyên tắc. Các cán bộ tín dụng
quá dễ dàng cho vay đối với khách hàng là bạn bè, người quen thân, hoặc do
lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm bảo an toàn. Cán bộ
quản lý đôi khi vì lợi ích cá nhân hay vì lợi ích của một nhóm tập thể, trong
công tác điều hành đã vô tình tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi ro đạo đức ở
cán bộ phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay bộ phận nhóm cán quản lý
đã có quan hệ lợi ích với khách hàng, mặc dù điều kiện vay vốn có thể chưa
hội tụ đủ, thậm chí không đủ điều kiện và đã được cán bộ thẩm định ghi rõ
nguyên nhân trong báo cáo thẩm định là không duyệt cho vay. Thông thường
những khoản vay đó sẽ không được phê duyệt, nhưng vì một lý do tế nhị nào
đó, nhà quản lý đã bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn khách hàng hợp
thức hóa hồ sơ, thậm chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định phải
thực hiện theo ý kiến chỉ đạo ( trên thực tế thì rất ít cán bộ có thể bảo vệ ý
kiến ban đầu của mình).
Do đó, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều
quan điểm nhất trí rằng: rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể
đề phòng hoặc hạn chế chứ không thể loại trừ.
Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây rủi ro trên đây giúp chúng ta
nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan hơn, từ đó có được đề xuất
phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại
một cách hữu ích, thiết thực hơn.
1.2.3. Các dấu hiệu phản ánh rủi ro tín dụng.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Rủi ro tín dụng thường khó mà xảy ra qua một đêm, do vậy mà nó
thường có một vài dấu hiệu báo động. Có những dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt,
có dấu hiệu biểu hiện rõ ràng. Ngân hàng cần có cách nhận biết ra những dấu
hiệu ban đầu của dự án có vấn đề và có hành động cần thiết nhằm ngăn ngừa
hoặc xử lý chúng. Nhưng các dấu hiệu này đôi khi được nhận ra qua một quá
trình chứ không hẳn là một thời điểm, do vậy cán bộ tín dụng cần phải biết
cách nhận ra chúng một cách có hệ thống. Sau khi khoản vay phát sinh và
được phân loại, cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để
nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau:
1.2.3.1. Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng.
- Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong
quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình
hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự
giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp
luật trong quá trình quan hệ tín dụng.
- Chậm gửi hoặc trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu
mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục.
- Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
- Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng các tài
khoản của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số
dấu hiệu quan trọng như:
+ Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối.
+ Khó khăn trong thanh toán lương.
+ Sự giao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài
khoản tiền gửi.
+ Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
+ Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều
nguồn khác nhau .
+ Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí.
+ Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng
thanh toán nợ khi đến hạn…
- Các hoạt động cho vay:
+ Mức độ vay thường xuyên gia tăng.
+ Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.
+ Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến.
+ Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả
hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc do việc tiêu thụ hàng, thu hồi công
nợ chậm hơn dự tính.
+ Tài sản đảm bảo không đảm bảo đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị
giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác
thuê, bán hay trao đổi hoặc đã biến mất, không còn tồn tại.
- Phương thức tài chính:
+ Sử dụng nhiều các tài khoản ngắn hạn tài trợ cho các hoạt động
phát triển dài hạn.
+ Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất. Ví dụ: thường
xuyên sử dụng dịch vụ chiết khấu các tài khoản phải trả.
+ Giảm các khoản phải thu và tăng các khoản phải trả.
+ Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu.
+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ.
+ Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều
nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
Nguyễn Thị Ngọc Yến Kinh tế đầu tư 47D
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét