Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư tại NHTMCP Ngoại thương- Chi nhánh Đồng Nai

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
• Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay kí kết với chủ đầu tư, các loại tài sản đảm bảo, chủ
thể đảm bảo, cách thức đảm bảo, mức cho vay/giá trị tài sản đảm bảo.
• Rủi ro nghiệp vụ: là những rủi ro có liên quan đến công tác quản lý khoản
vay và hoạt đông cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi
ro và kĩ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
 Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh
là do những hạn chế trong công tác quản lý danh mục các dự án đầu tư cho vay của
NH. Rủi ro danh mục được phân chia thành hai loại:
• Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm mang tính chất riêng
biệt bên trong mỗi chủ đầu tư hoặc ngành lĩnh vực của dự án đầu tư xin vay
vốn.
• Rủi ro tập trung: là tình huống NH tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, hoặc cho vay quá nhiều dự án đầu tư thuộc cùng một
ngành, một lĩnh vực kinh tế hoặc cùng một vùng địa lý nhất định.
1.1.2.2 Rủi ro DAĐT
Một dự án đầu tư có thể gặp rất nhiều rủi ro khác nhau từ pha lập dự án, triển khai thực
hiện dự án đến pha vận hành kết quả đầu tư. Trên quan điểm của NH, rủi ro DAĐT bao
gồm những rủi ro chính sau:
 Rủi ro về tiến độ thực hiện: Khi công tác giải phóng mặt bằng phục vụ cho dự án
diễn ra chậm, hay năng lực thi công kém, công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng
theo yêu cầu của dự án… tiến độ thi công công trình của dự án sẽ bị kéo dài hơn dự kiến.
Điều này tất yếu sẽ làm cho dự án không đáp ứng được thời hạn vay vốn theo như đã dự
kiến và kí kết trong hợp đồng với NHTM cấp vốn.
 Rủi ro về thị trường: Khi công tác thẩm định dự án đầu tư không lường hết được
các biến động của thị trường như khả năng cung cầu, giá cả, thị hiếu… sẽ gây ra rủi ro về
thị trường. Rủi ro có thể là việc không đảm bảo được các đầu vào quan trọng theo số
lượng, giá cả, chất lượng đã dự kiến gây khó khăn cho việc vận hành dự án; rủi ro còn có
thể là việc sản phẩm của dự án không tiêu thụ được ở thị trường đầu ra. Khối lượng sản
phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng thực tế trên thị trường dẫn đến
hàng hóa bị ứ đọng, làm doanh nghiệp không thu hồi được vốn đúng thời hạn. Chất lượng
sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường vì vậy phải bán hàng hóa
thấp hơn giá thành, donah nghiệp phải chịu lỗ trong kinh doanh hoặc doanh nghiệp phải
tốn thêm chi phí quảng cáo, bảo hành, quà tặng hay những chi phí nhằm nâng cao chất
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
lượng sản phẩm của dự án. Trong các hướng giả quyết này, chủ đầu tư đều phải chịu thiệt
hại trong việc thu hồi vốn đầu tư, việc trả nợ đúng hạn cho NH là rất kho thực hiện
 Rủi ro về môi trường: môi trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả
nhưng không bị chi phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro về môi trường gây ra có thể
kể đến như: dự án trong quá trình thực hiện đầu tư gây tác động tiêu cực đối với môi
trường và những người dân xung quanh dẫn đến việc phải di dời địa điểm hoạt động của
dự án, hoặc phải bổ sung các thiết bị ngoài dự kiến nhằm hạn chế những tác động đến môi
trường, thậm chí dự án phải ngừng hoạt động, đóng cửa nhà máy… Điều đó sẽ làm chi phí
của dự án tăng cao ngoài dự kiến, trường hợp xấu nhất khi dự án phải ngừng hoạt động,
khả năng thanh toán các khoản nợ cho NH của chủ đầu tư sẽ bị giảm sút và thậm chí là
không thể.
 Rủi ro kinh tế vĩ mô: Rủi ro phát sinh do môi trường kinh tế vĩ mô thay đổi. Ví dụ
như hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại làm giảm sản lượng và tăng chi
phí của các dự án. Sự thay đổi về thuế sẽ làm cho dòng tiền hàng năm của dự án thay đổi,
từ đó NPV, IRR của dự án cũng bị thay đổi theo, nguồn trả nợ của dự án vì thế cũng bị ảnh
hưởng. Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất mới để kiểm soát lạm phát có thể sẽ làm
hoạt động của dự án giảm hoặc tăng. Nói chung bất kì hoạt động đầu tư nào cũng chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xung quanh nó. Môi trường kinh tế không thuận lợi
sẽ làm cho các dự án đầu tư thực hiện kém hiệu quả, mỗi đồng vốn không phát huy được
hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay của dự án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro trong
các khoản cho vay của NH. Một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất tiêu
dùng của xã hội lớn sẽ kích thích các hoạt động đầu tư phát triển được triển khai nhiều và
hiệu quả hơn. Một nền kinh tế khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, hoạt
động đầu tư phát triển kéo theo đó cũng bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi
vốn tín dụng của NH. Không chỉ giới hạn trong nền kinh tế của một nước mà nền kinh tế
thế giới và khu vực cũng có những tác động đáng kể đến hoạt động cho vay các dự án đầu
tư nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung của các NHTM nhất là khi quan hệ kinh tế
quốc tế được mở rộng như ngày nay.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.1.3 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay vốn các DAĐT tại
NHTM
1.1.3.1 Nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô
Sự thay đổi bất thường của chính sách kinh tế của Nhà nước: khi có sự thay đổi về
chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới
hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các bộ, ngành trong nền kinh tế sẽ
làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư của các dự án đầu tư xin vay vốn, kéo theo
ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả tín dụng của mỗi chủ đầu tư cho NH. Rủi ro trong hoạt
động cho vay các dự án đầu tư vì thế xuất hiện.
Một nền kinh tế dù mạnh hay yếu đều phải trải qua chu kì khủng hoảng – suy thoái –
phát triển – hưng thịnh. Như đã phân tích ở phần rủi ro dự án trên quan điểm của NH, nền
kinh tế đang tăng trưởng hay suy thoái đều tác động đến hiệu quả của DAĐT, kéo theo đó
là khả năng trả nợ vốn vay của chủ đầu tư. Nhưng không chỉ có vậy, tình trạng của nền
kinh tế còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NH. Nền kinh tế tăng
trưởng lành mạnh, hoạt động đầu tư phát triển nhờ đó được lưu tâm nhiều hơn, các dự án
đầu tư cùng với nhu cầu vốn vay cũng tăng lên, cơ hội đầu tư của NH cũng nhiều lựa chọn
hơn. Nền kinh tế khủng hoảng đang trên đà xuống dốc, lạm phát tăng vọt, sản xuất đình
đốn… thì chính hoạt động NH cũng bị giảm sút. Vấn đề đặt ra là NH cần nghiên cứu kỹ về
chu kì của nền kinh tế để có được những chính sách cho vay phù hợp.
Môi trường pháp lý: Hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh với đối tượng hàng hóa
đặc biệt là tiền tệ, điều mà NHTM cần trước nhất là hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ
và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn
bản dưới luật chưa đầy đủ, hợp lý, hay thường xuyên thay đổi sẽ không đảm bảo môi
trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay các dự án đầu tư noi riêng
của các NHTM
Ngoài những nhân tố kể trên, rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của
NHTM còn chịu tác động của các nhân tố khác như thiên tai, chiến tranh địch họa…
Những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của chủ đầu tư đi vay vốn lẫn NH cho vay vốn.
Trong nhiều trường hợp, khi các tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với dự
án là nặng nề thì khả năng trả nợ của chủ đầu tư ít nhiều bị suy giảm, tình huống xấu nhất
có thể gây ra rủi ro cho NHTM là bị mất vốn, không thu hồi được nợ.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.1.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Nguyên nhân thuộc về chủ đầu tư – người đi vay vốn là một trong những nguyên nhân
chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NHTM.
Rủi ro có thể xảy ro do:
- Trình độ của người vay: Nhiều chủ đầu tư đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không
có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư, hoặc không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn phát sinh vì thế
đã tiến hành những dự án không hiệu quả dẫn đến làm ăn thua lỗ nên không trả được nợ
NH.
- Phẩm chất, đạo đức của người vay: Rất nhiều chủ đầu tư sẵn sàng mạo hiểm vay NH
một số tiền lớn với kì vọng thu lại được lợi nhuận cao trong khi DAĐT có độ rủi ro rất lớn.
Để đạt được mục đích đó, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với NH như cung câp
thông tin sai, giả mạo hồ sơ, mua chuộc hối lộ cán bộ tín dụng … Nhiều chủ đầu tư còn lập
dự án ảo để vay vốn của NH sau đó sử dụng vào mục đich khác. Thậm chí nhiều DAĐT đi
vào vận hành kết quả có lãi nhưng chủ đầu tư vẫn không chịu trả nợ NH đúng hạn với mục
đích sử dụng vốn càng lâu càng tốt hoặc để quịt nợ.
1.1.3.3 Nguyên nhân thuộc về NH
a) Rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế, chính sách của NH chưa
phù hợp:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của NH đó và trở thành hướng dẫn
chung cho các cán bộ tín dụng và các thành viên của NH, tăng cường chuyên môn hóa
trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nói chung và
hoạt động xem xét đánh giá cấp vốn cho DAĐT xin vay vốn nói riêng. Từ đó hạn chế rủi
ro và nâng cao khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh của NH.
Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của NH và có thể tạo thêm
nhiều rủi ro. Chẳng hạn, NH vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt động cho vay các dự án đầu tư
quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn có nguy cơ tăng. Ngược lại nếu chính sách tín
dụng của NH không đa dạng, dẫn đến hiện tượng tập trung cấp vốn cho một số khách hàng
hoặc các dự án đầu tư ở cùng một lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi bỏ trứng vào một
giỏ.
b) Bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu kém:
Một số NHTM tại Việt Nam chưa có một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi
ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng DAĐT xin vay vốn thuộc các ngành nghề, địa
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự phối hợp giữa NH và
trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên
nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NHTM. Thậm chí một
số NHTM còn sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm tín dụng, điều đó dẫn
đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn.
Vì thế NH rất khó giám sát chủ đầu tư sau khi được quyết định cho vay để đầu tư dự án có
thực sự sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không. Chính vì thiếu thông tin nên NH
không thể đưa ra quyết định phù hợp chính xác, điều này có thể dẫn đến việc NH rót vốn
vào những nơi thiếu tin cậy
Bên cạnh đó, hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ NH còn lỏng lẻo, yếu kém. Nhiều NH
còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy trình chưa nghiêm túc,
kém hiệu lực.
c) Sự yếu kém về mặt nghiệp vụ cũng như tư cách đâọ đực của cán bộ tín dụng:
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực nghiệp vụ không có khả năng phân tích
thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do công tác thông tin còn yếu và
thiếu. NH không có đủ số liệu thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai
hiệu quả của dự án, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp. Việc cán bộ tín dụng
thiếu năng lực còn dẫn đến việc không thể phát hiện được những sai sót về mặt pháp lý
trong hồ sơ xin vay của chủ đầu tư hay định giá tài sản đảm bảo không hợp lý… có thể gây
ra nhiều tổn thất cho NH. Sự lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám sát việc
thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc không phát hiện
kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng mục đích hay hành vi lừa đảo của khách
hàng.
Bên cạnh vấn đề yếu và thiếu năng lực chuyên môn, tồn tại một bộ phận cán bộ NH
yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, cố
tình cho vay sai nguyên tắc: cán bộ tín dụng quá dễ dàng cho vay đối với khách hàng là
bạn bè, người quen thân hoặc do lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm
bảo an toàn. Ngay cả cán bộ quản lý đôi khi cũng vì lợi ích cá nhân hay lợi ích của một
nhóm người, trong công tác điều hành đã vô tình hay cố y tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi
ro đạo đức ở cán bộ tín dụng phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay nhóm các cán bộ
quản lý đã có quan hệ lợi ích với chủ đầu tư quyết định cấp tín dụng cho DAĐT mặc dù
điều kiện xin vay vốn chưa được thỏa mãn đầy đủ, thậm chí có trường hợp cán bộ thẩm
định đã viết rõ trong báo cáo thẩm định là không xét duyệt cho vay. Thông thường những
khoản vay đó đáng lẽ ra không được phê duyệt nhưng vì một lý do nào đó, nhà quản lý đã
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn chủ đầu tư hợp lý hóa hồ sơ xin vay vốn, thậm
chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định phải thực hiện theo y kiến chỉ đạo.
Tóm lại, rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM là khách quan và
không thể tránh khỏi. Rủi ro là bạn đường tỏng kinh doanh của NHTM, có thể đề phòng
hạn chế chứ không thể loại trừ.
Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây ra rủi ro trên đây giúp chúng ta nhìn nhận một
cách đầy đủ, toàn diện khách quan hơn, từ đó có được những đề xuất phòng ngừa, giảm
thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT một cách hữu ích, thiết thực hơn.
1.1.5 Các chỉ số và phương pháp đo lường rủi ro áp dụng tại NHTM
1.1.5.1 Các chỉ số phản ánh rủi ro
 Hệ số thu nợ (%)
Hệ số thu nợ
=
Doanh số thu nợ
Tổng doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả thu nợ của NH hay khả năng trả nợ vay của khách
hàng. Hệ số thu nợ càng lớn thì càng được đánh giá tốt, cho thấy công tác thu hồi vốn của
NH đạt hiệu quả, ít gặp rủi ro và ngược lại.
 Tổng dư nợ trên tổng vốn huy động (%, lần)
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng đồng vốn huy động của NH. Nó giúp so sánh
khả năng cho vay của NH với nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ
đều không tốt, bởi vì nếu chỉ tiêu này quá lớn thì cho thấy khả năng huy động vốn của NH
thấp, ngược lại nếu chỉ tiêu này quá nhỏ cho thấy NH đã sử dụng vốn huy động ngày càng
không có hiệu quả.
 Mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư:
Mức độ rủi ro =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NH và đo lường
chất lượng nghiệp vụ tín dụng của NH một cách rõ nét. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy chất
lượng của hoạt động cho vay các DAĐT của NH càng kém và ngược lại. Mức giới hạn cho
phép của mức độ rủi ro do NHNN quy định là 5%.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, các NHTM còn sử dụng một số chỉ số sau để đo lường rủi ro trong hoạt
động cho vay các dự án đầu tư:
Ư
 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ nợ xấu trên
=
Nợ xấu
Tổng số dư nợ tín dụng
Nợ xấu bao gồm nợ quá hạn, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ hoặc nợ xấu theo hệ thống
xếp hạng nội bộ của NH
Các NH xem chỉ tiêu này như chỉ tiêu cơ bản trong việc đánh giá chất lượng của hoạt
động cho vay các DAĐT. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, chỉ tiêu này quá cao điều đó có
nghĩa khả năng rủi ro không thu hồi được nợ càng lớn
 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ nợ quá hạn trên
Nợ quá hạn
Tổng số dư nợ tín dụng
 Tỷ số giữa các khoản xóa nợ trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ số giữa các khoản xóa nợ
Nợ được xóa
Tổng số dư nợ tín dụng
Các khoản nợ được xóa là các khoản nợ NH quyết định xóa, loại bỏ khỏi sổ sách của
NH và được hạch toán ngoại bảng. Các khoản nợ được xóa là các khoản nợ quá hạn NH
đánh giá khó có khả năng thu hồi được vốn hoặc khách hàng đã giải thể, dự án đầu tư bị
phá sản, không còn nguồn nào để bù đắp… NH thường dung quỹ dự phòng rủi ro hàng
năm để thực hiện việc xóa nợ.
 Tỷ số giữa dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư với tổng
dư nợ hoặc với tổng vốn chủ sở hữu của NH
Tỷ số giữa dự phòng rủi ro
trong hoạt động cho vay
các DAĐT với
=
Dự phòng rủi ro cho hoạt động
cho vay các DAĐT
Tổng số dư nợ tín dụng
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Tỷ số giữa dự phòng rủi ro
trong hoạt động cho vay
các DAĐT với tổng vốn
=
Dự phòng rủi ro cho hoạt động
cho vay các DAĐT
Tổng vốn chủ sở hữu
Dự phòng rủi ro cho hoạt động cho vay các dự án đầu tư là số tiền dự phòng được
hạch toán vào chi phí hoạt động của NH thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị
dạnh mục các dự án đầu tư cho vay được đánh giá là có khả năng không thu hồi được vốn.
Trường hợp tỷ số này càng cao sẽ cho thấy danh mục các dự án đầu tư xin vay vốn đã
được cấp tín dụng của NH không tốt, số nợ khó có khả năng thu hồi lớn. Việc đánh giá
đúng khả năng thu hồi của danh mục các dự án đầu tư xin vay vốn, nhằm trích lập quỹ dự
phòng rủi ro một cách phù hợp, bù đắp được những biến cố xảy ra là hết sức quan trọng
trong công tác quản trị NH hiện đại.
1.1.5.2 Phương pháp đo lường rủi ro RAROC
Theo nghiên cứu của tác giả Joel Bessis trong cuốn Risk Managerment in Banking –
2001) về các loại rủi ro trong hoạt động của NH thì rủi ro tín dụng chiếm 54%, rủi ro hoạt
động chiếm 27%, rủi ro thị trường chiếm 14%, rủi ro lãi suất chiếm 5%. Trong rủi ro tín
dụng có đến 45% là rủi ro phát sinh từ hoạt động cho vay các dự án đầu tư
Hiện nay rất nhiều các NHTM trên thế giới áp dụng phương pháp RAROC (Risk
Adjusted Return on Capital) để đo lường rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro phát sinh trong
hoạt động cho vay các dự án đầu tư nói riêng. Rủi ro tín dụng được tính như sau:
Thu nhập – Tổn thất dự kiến
Tổn thất ngoài dự kiến
Trong đó:
- Thu nhập bao gồm:
+ Thu từ tài chính (thu từ chênh lệch lãi suất và các khoản phí thu trước + các
khoản thu định kì)
+ Thu từ hoạt động kinh doanh của NH
- Tổn thất dự kiến = Xác suất xảy ra rủi ro tính toán thông qua xếp hạng x giá trị/dư
nợ khi xảy ra rủi ro x giá trị tổn thất trong trường hợp rủi ro (tính thông qua tỷ lệ
thu hồi)
- Tổn thất ngoài dự kiến = Độ lệch chuẩn trong phân bố tổn thất
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn việc dùng các chỉ số nợ quá hạn vì tỷ lệ nợ
quá hạn phải được so với thu nhập của từng NHTM cụ thể mới có thể đánh giá là cao hay
thấp.
1.1.5.3 Phương pháp tính tổn thất của rủi ro dựa trên hệ thống cơ sở dữ
liệu đánh giá nội bộ
Theo tiêu chuẩn vốn quốc tế của Basel II, các NH sẽ sừ dụng hệ thống cơ sở dữ liệu
của nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng nói chung và cụ thể là rủi ro trong hoạt động cho vay
các DAĐT của NHTM, từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu.
Các NH sẽ xác định các biến số như PD (probability of Default) – xác suất khách hàng
không trả được nợ; LGD (loss given Default) – tỷ trọng tổn thất ước tính; EDA (Exposure
at Default) – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ; EL (Expected
Loss) – tổn thất có thể ước tính.
Đối với mỗi khoản cho vay đối với mỗi DAĐT, ứng với mỗi kì hạn khác nhau, tổn thất
có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức:
EL = PD x EAD x LGD
Các thành phần cấu thành trong công thức được mô tả như sau:
 PD (probability of Default) – xác suất khách hàng không trả được nợ
Cơ sở của xác suất này là số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm
các khoản nợ đã trả, các khoản nợ đang trong hoạn và các khoản nợ không thu hồi được.
 EDA (Exposure at Default) – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả
được nợ
EAD = dư nợ bình quân + LEQ x hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân
Trong đó, LEQ (Loan Equivalent Exposure) là tỷ trọng phần vốn chư sử dụng có nhiều khả
năng khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. LEQ x hạn mức tín dụng sử
dụng bình quân chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ
ngoài mức dư nợ bình quân.
 LGD (loss given Default) – tỷ trọng tổn thất ước tính
Đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không
trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất
khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được
thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phi xử lý tài sản bảo đảm,
các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số các chi phi liên quan khác.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VỐN CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TẠI NHTM
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay vốn các dự
án ĐT tại NHTM
1.2.1.1 Ảnh hưởng của rủi ro tới bản thân NH cấp tín dụng
Hoạt động cho vay các DAĐT là một bộ phận quan trọng trong hoạt động tín dụng,
mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NH; vì vậy nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại
cũng như phát triển của NH. Một số ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động cho vay các
DAĐT đối với bản thân NH cấp tín dụng có thể kể đến như sau:
a) Hiện tượng ứ đọng vốn
Khi có rủi ro xảy ra với các DAĐT xin vay vốn, đến hạn thanh toán, chủ đầu tư không
thực hiện được cam kết thanh toán của mình, NH sẽ thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
của khách hàng hoặc phải chuyển nợ quá hạn. Đối với bản thân NHTM, bất cứ khoản nợ
xấu nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn tại NH
Các khoản nợ quá hạn hay cơ cấu lại thời hạn, trước hết làm cho NHTM không thu hồi
được vốn và lãi đúng hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều đó làm cho thời
gian của 1 vòng quay vốn tín dụng thực tế lớn hơn vòng quay vốn tín dụng đã thỏa thuận.
Như vậy nợ xấu đã làm giảm tốc độ chu chuyển vốn tín dụng của NHTM dẫn đến làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn, đi kèm với các khoản nợ xấu còn là sự phát sinh của các khoản
chi phí khác như chi phí giảm sát, thu nợ… Kết quả là lợi nhuận mang lại cho NH từ hoạt
động cho vay các dự án bị giảm sút.
Không chỉ có vậy, nợ xấu trong hoạt động cho vay các dự án của NHTM còn gây nên
hậu quả làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM.
NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” nghĩa là nguồn vốn cấp tín dụng
cho khách hàng được thực hiện trên cơ sở vốn huy động từ các nguồn khác nên NHTM
phải có trách nhiệm cân đối hoạt động sao cho có thể đảm bảo thực hiện được nghĩa vụ
hoàn trả cả gốc và lãi với các chủ nợ của mình. Các khoản nợ quá hạn hoặc cơ cấu lại thời
hạn trả nợ làm cho NHTM rơi vào tình trạng đến hạn phải trả cho người gửi tiền nhưng
vẫn chưa thu được tiền từ người vay. Rủi ro thanh khoản phát sinh từ đó. Nếu tình trạng
mất khả năng thanh toán của NHTM diễn ra quá nhiều lần hoặc thông tin về rủi ro gặp phải
của NH bị rò rỉ ra ngoài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của NH. Điều đó tất yếu sẽ dẫn
đến khả năng cạnh tranh của NH bị giảm sút, do đó việc huy động tiền gửi cũng sẽ gặp khó
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét