Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp
ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt
động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín
dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến
máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế
và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
1.1.2. Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị
trường.
Bước sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân
hàng đã làm biến đổi hoạt động ruỗng lát trong các nhà máy, xí nghiệp khơi
dậy sức sống bằng các dây chuyền sản xuất hiện đại năng suất cao, thực
hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể thực hiện
bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín
dụng ngân hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng
cường nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối
lo thường trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác đòi hỏi sự có mặt
của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đó là một ngân quỹ để dành
cho việc đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với sự phát triển của khoa học -
kỹ thuật - công nghệ cao. Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu
nhiều những chuyên gia đầu ngành, những cán bộ có năng lực và những
công nhân lành nghề.
1.1.3. Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia
làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh
(NHTM). Các NHTM được Nhà nước sử dụng như công cụ để quản lý hoạt
động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia. Nhà nước điều tiết ngân
hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và thanh
toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua việc cung ứng
tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, Ngân hàng thương mại thực hiện
việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều
khiển chúng một cách có hiệu quả.
1.1.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với
nền tài chính quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh
tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một trong các điều kiện quan trọng
góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới
đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nèn tài
chính quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các
lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán,
nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh
toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà
nước của Ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần
thúc đẩy hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng
thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với
sự vận động của nền tài chính quốc tế.
1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Chức năng làm trung gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín của Ngân hàng thương mại được thể hiện
qua sơ đồ luân chuyển vốn sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ luân chuyển vốn
Cá
nhân
và
doanh
nghiệp
Ngân
hàng
thương
mại
Cá
nhân
và
doanh
nghiệp
Đầu tư
Cho vay
Uỷ thác đầu tư
Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu
nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi
ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại
lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm
được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng
này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp
ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và
để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn
nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân
chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại,
nó quyết định sự duy trì và phát triển của Ngân hàng đồng thời là cơ sở để
thực hiện các chức năng sau:
1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán.
Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra
thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang
tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng
đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân
hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền
kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày
càng được mở rộng.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống Ngân hàng
thương mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện
thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho
khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng
Gửi tiền
nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với
Ngân hàng thương mại chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân
hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn
cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách
hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền
của Ngân hàng thương mại.
1.2.3. Chức năng tạo tiền.
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ
một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng
chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn
hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của
hệ thống ngân hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền
gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để
lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sư đem đi đầu tư, cho vay từ đó
nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của
vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng
thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền.
2. VỐN - TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN HUY ĐỘNG ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
2.1. Vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư
hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Vốn của ngân hàng được thể
hiện dưới các dạng: Nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động.
2.1.1. Nguồn vốn chủ sỡ hữu.
Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân
hàng tạo lập được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn
của các chủ sở hữu hoặc hình thành từ kết quả kinh doanh. Ở những nước
khác nhau, định nghĩa về vốn tự có có thể khác nhau nhưng nét chung nhất
vốn tự có bao gồm các thành phần sau:
1 - Vốn góp của chủ sở hữu để thành lập hoặc mở rộng doanh
nghiệp.
2 - Các quỹ dự trữ được hình thành trong quá trình hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng theo cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu
vốn như: Quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính
3 - Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh chưa sử dụng
4 - Các khoản nợ được coi như vốn.
Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng, song lạ là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng.
Do tính chất ổn định, nó thực hiện chức năng thành lập, chức năng bảo vệ
và điều chỉnh đối với hoạt động ngân hàng. Trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng, thì vốn tự có của ngân hàng chiếm dưới 10%, như vậy vốn ký
thác của ngân hàng khoảng trên 90%. Các Ngân hàng Trung Ương quy
định mức vốn tự có của ngân hàng lớn hơn hoặc bằng 8% trên tổng tài sản
có rủi ro quy đổi, điều này muốn nói lên rằng chức năng chủ yếu của khối
lượng giới hạn vốn chủ sở hữu đã được xem như là tài sản bảo vệ cho
những người gửi tiền. Chức năng bảo vệ không chỉ được xem như sự bảo
đảm thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng vỡ nợ, mà còn góp phần
duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản có dự trữ để
ngân hàng khỏi bị đe doạ bởi sự thua lỗ, để có thể tiếp tục hoạt động.
Ngoài việc cung cấp nền tảng cho các hoạt động và để bảo vệ người
gửi tiền. Chức năng điều chỉnh cũng đã được xác định cho vốn chủ sở hữu
của Ngân hàng thương mại. Dựa trên mức vốn tự có của ngân hàng, các cơ
quan quản lý xác định, điều chỉnh hoạt động cho ngân hàng ví dụ như các
ngân hàng chỉ có thể cho một khách hàng lớn nhất vay không quá 15% vốn
tự có của ngân hàng. Nếu như ngân hàng cho vay quá số đó sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động an toàn của ngân hàng.
2.1.2. Nguồn vốn huy động.
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là
những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và
các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ ký
thác, các nghiệp vụ khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác
nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyển sở hữu và có
trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn (nếu là tiền gửi
có kỳ hạn) hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn (nếu là tiền gửi không
kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng. Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình
thức: Nhận tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm); phát hành các công cụ nợ (tín phiếu, trái phiếu); và nguồn vốn đi
vay. Ngoài ra vốn của ngân hàng còn được hình thành thông qua việc làm
uỷ thác, đại lý cho các tổ chức trong và ngoài nước hoặc cung cấp các
phương tiện thanh toán như thẻ rút tiền tự động từ máy ATM
Nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau nhưng trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ
trọng lớn nhất, chiếm khoảng từ 70% - 80% và nó có tính biến động. Nhất
là đối với loại tiền gửi không kỳ hạn và vốn ngắn hạn, hơn nữa vốn huy
động chịu tác động lớn của thị trường và môi trường kinh doanh trên địa
bàn hoạt động. Vì vậy Ngân hàng thương mại cần phải đi sâu tìm hiểu,
phân tích nguồn hình thành vốn này, dự đoán trước tình hình cung cầu vốn
để có đối sách phù hợp.
2.2. Vốn huy động và vai trò của nó đối với Ngân hàng thương mại.
Vai trò đầu tiên của vốn huy động đó là nó quyết định đến quy mô
của hoạt động và quy mô tín dụng của ngân hàng. Thông thường nếu so với
các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay
kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này
cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được ở thị trường
trong nước, ngoài nước thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi
hẹp, mà chủ yếu trong cộng đồng. Mặt khác do khả năng vốn hạn hẹp nên
các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về
chính sách, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp
dân cư và các thành phần kinh tế.
Thứ hai là vốn huy động quyết định đến khả năng thanh toán và đảm
bảo uy tín của các ngân hàng trên thị trường trong nền kinh tế. Để tồn tại
và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động, đòi hỏi ngân hàng phải có uy tín
trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó trước hết phải được thể hiện ở
khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, khả năng thanh toán
của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn, đồng
thời với nó tạo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng lớn, đồng
thời với nó tạo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng với quy mô lớn,
tiến hành các hoạt động cạnh tranh có qhj, đảm bảo uy tín, nâng cao thanh
thế của ngân hàng trên thị trường.
2.3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
2.3.1. Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi.
2.3.1.1. Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách hàng
không có thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một
mức lãi suất thấp hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì,
tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút
ra bất kỳ lúc nào, do đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn này,
ngân hàng phải dự trữ một số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi
khách hàng có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại:
* Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân
hàng để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và
các khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
của khách hàng. Đứng trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng
gửi vào ngân hàng để sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt:
Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi Họ có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông
qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân hàng thì ngân hàng coi đây
là một khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng bất
kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này để làm vốn
kinh doanh của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân hàng
do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản
của khách hàng.
* Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn,
khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi
không kỳ hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút
bất kỳ lúc nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán.
Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an toàn vì khách hàng không xác
định được thời gian nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ không có nhu cầu sử
dụng tiền gửi thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
2.3.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận
trước về thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn
định vì ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách hàng để thanh
toán cho khách hàng đúng thời hạn. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử
dụng số tiền gửi đó vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối
với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3
tháng, 6 tháng mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi
phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Chính vì là loại
tiền gửi mà ngân hàng có quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định nên
loại tiền gửi này được trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
2.3.1.3. Tiền gửi tiết kiệm.
Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng cấp cho khách hàng một
cuốn sổ, khách hàng phải quản lý và mang theo mỗi khi đến ngân hàng
giao dịch.
Xét về bản chất, tài khoản tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập
của cá nhân người lao động mà họ chưa đưa vào tiêu dùng, và là một dạng
đặc biệt để tích luỹ tiền tệ thay cho hình thức cất trữ vàng, hàng hoá. Tiền
gửi tiết kiệm có ba loại:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất
cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho
người khác. Số dư tiền gửi này không lớn, nhưng ít biến động, vì vậy đối
với loại tiền gửi này các Ngân hàng thương mại thường trả lãi suất cao hơn
với tiền gửi thanh toán.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về
thời gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ
hạn. Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam, các Ngân hàng
thương mại Việt Nam thường huy động tiết kiệm với thời hạn phong phú từ
ba tháng đến một năm.
* Tiết kiệm dài hạn: Đây là loại tiền gửi phổ biến ở một số nước
công nghiệp. Loại tiết kiệm này có tính ổn định cao bởi vì thời gian gửi tiền
từ một năm trở lên, do đó ngân hàng chủ động sử dụng nguồn vốn này, nó
tạo cho ngân hàng có tính chủ động sử dụng vốn cho mục đích vốn dài hạn.
Để thu hút vốn này, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao.
2.3.2. Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá mà các Ngân hàng thương mại dùng để huy động vốn
thực chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân
hàng vay tiền xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở
một mức lãi suất và ngày hoàn trả nhất định.
Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn sử
dụng có tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn
thiếu hụt có tính tình thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế.
Ngân hàng thường sử dụng các loại giấy tờ có giá dưới các hình thức:
2.3.2.1. Phát hành trái phiếu:
Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân
hàng phát hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân
hàng khi phát hành trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc
phát hành trái phiếu, các Ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của Ngân
hàng Trung Ương, của các cơ quan quản lý trên thị trường chứng khoán và
có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân hàng.
2.3.2.2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi.
Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng.
người sở hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn
khi đến hạn. Chứng chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường
tiền tệ.
2.3.2.3. Phát hành kỳ phiếu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét