Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Pháp luật về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, đất đai thuộc quyền sở hữu của cỏc
chủ sở hữu khỏc nhau: tư nhân, Nhà nước, tập thể ở Việt Nam, đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Quy định này xuất phát từ nhu
cầu nội tại của việc đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc trong công cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm giành và giữ nền độc lập. Hơn nữa, việc xác định và tuyên bố
đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý còn mang
ý nghĩa khẳng định chủ quyền, tính độc lập và toàn vẹn lónh thổ quốc gia. Mặt
khác, hiện nay nước ta còn khoảng gần một nửa diện tích đất chưa sử dụng
(khoảng 10.027.265 ha), chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc. Việc xác lập đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý cũn là cơ sở để Nhà
nước xây dựng các chương trình và kế hoạch cụ thể nhằm từng bước đưa diện
tích đất này vào sử dụng góp phần phát huy tiềm năng, thế mạnh của đất đai với
vai trò là nguồn lực, nguồn vốn to lớn để phát triển đất nước;
Với vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng như vậy, đất đai luôn đòi hỏi phải
có sự quản lý chặt chẽ, thống nhất và đồng bộ nhằm bảo đảm SDĐ đúng mục
đích, tiết kiệm và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc Nhà nước quản lý đất đai
Luật đất đai 2003 đã quy định rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu. Vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai được thực hiện
bằng việc Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua
các chính sách tài chính về đất đai; trao quyền sử dụng đất (QSDĐ) cho người
SDĐ thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ đối với người
SDĐ ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người SDĐ … Việc Nhà nước
quản lý toàn bộ vốn đất đai dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu
sau đây:
Thứ nhất, xét về bản chất chính trị, Nhà nước ta (Nhà nước CHXHCN
Việt Nam) là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân. Về cơ bản, lợi ích của Nhà nước là
đồng nhất với lợi ích của nhân dân. Mặt khác ở nước ta đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, để quản lý toàn bộ vốn đất đai thuộc quyền sở hữu của mình, nhân dân
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
với tư cách một cộng đồng xã hội không thể tự mình đứng ra thực hiện các nội
dung cụ thể của hoạt động quản lý đất đai mà phải cử người thay mặt mình đứng
ra làm nhiệm vụ này. Người đó chính là Nhà nước CHXHCN Việt Nam ;
Thứ hai, xét về nguồn gốc ra đời và chức năng của Nhà nước, Nhà nước là
một tổ chức chính trị do xã hội thiết lập nên với một trong những chức năng cơ
bản là thay mặt xã hội quản lý, điều phối nhịp nhàng, đồng bộ mọi hoạt động
của con người theo một quỹ đạo chung đảm bảo sự vận động và phát triển của
xã hội không rơi vào tình trạng rối loạn, vô tổ chức. Đất đai có vị trí, vai trò rất
quan trọng đối với toàn xã hội và cả với từng thành viên sống trong xã hội. Vì
thế nên nó không thể không chịu sự quản lý của Nhà nước nhằm dung hoà lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội và dung hoà lợi ích giữa cá nhân với lợi ích
của cộng đồng trong quá trình SDĐ vì sự phát triển bền vững ;
Thứ ba, Nhà nước là một tổ chức trong hệ thống chính trị song khác với
các tổ chức chính trị khác; Nhà nước là một tổ chức chính trị - quyền lực được
nhân dân trao cho quyền lực công quản lý xã hội. Để thực hiện chức năng của
mình, Nhà nước có quyền thu thuế; có quyền ban hành pháp luật; có quyền
thành lập bộ máy nhà nước để bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm
chỉnh trên thực tế. Do đó, trong các phương thức quản lý của con người thì
phương thức quản lý nhà nước là phương thức có hiệu quả nhất được sử dụng để
quản lý đất đai - tài sản quý giá nhất của xã hội ;
Thứ tư, như phần trên đã đề cập nước ta còn khoảng gần một nửa diện tích
đất tự nhiên chưa sử dụng (chủ yếu là đất trống, đồi núi trọc ) chủ yếu tập
trung ở khu vực miền núi phía Bắc ; phía Tây các tỉnh khu IV (cũ), các tỉnh
miền Trung ; các tỉnh Tây Nguyên Đây cũng là những vùng chậm phát triển
so với các địa phương khác trong cả nước. Vì vậy muốn đưa diện tích đất này
vào sử dụng cho các mục đích khác nhau của xã hội nói riêng và thúc đẩy sự
phát triển các khu vực này nói chung nhằm thu hẹp khoảng cách so với những
địa phương khác đòi hỏi phải đầu tư nguồn vốn ban đầu rất lớn mà ngoài Nhà
nước ra không có bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào có đủ khả năng và điều kiện
để thực hiện được việc này ;
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Thứ năm, ở nước ta đất đai là thành quả cách mạng ; trải qua nhiều thế hệ,
nhân dân ta phải tốn rất nhiều mồ hôi, công sức mới khai phá và cải tạo được
vốn đất đai như ngày nay. Mặt khác, Việt Nam vẫn còn là nước chậm phát triển
« đất chật, người đông » ; diện tích đất canh tác bình quân một đầu người vào
loại thấp trên thế giới (chưa bằng 1/6 mức trung bình của thế giới), trong khi đó
tốc độ phát triển dân số ở mức cao. Vì vậy để quản lý chặt chẽ, khai thác, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả đất nông nghiệp vì lợi ích của các thế hệ người Việt
Nam hiện tại và tương lai thì không thể thiếu được sự quản lý của Nhà nước đối
với đất đai nói chung và đối với đất nông nghiệp nói riêng ;
Thứ sáu, đối với một nước nông nghiệp có khoảng 80% dân số làm nông
nghiệp như nước ta. Để xây dựng và củng cố quyền lực của nhà nước trung
ương tập quyền thì Nhà nước phải nắm và quản lý được toàn bộ đất đai. Đây là
cơ sở kinh tế đảm bảo sự thống nhất, tập trung quyền lực vào tay chính quyền
trung ương.
1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.3.1. Khái niệm
Theo Từ điển Luật học: “Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền
lực nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn
định và phát triển xã hội theo những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi;
Quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động
của cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một
thực thể thống nhất. Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điều hành, quản lý
hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước »
1
;
Trên cơ sở khái niệm về quản lý nhà nước nói chung được đề cập trên
đây, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học đã đưa ra khái niệm về quản lý đất
đai và quản lý nhà nước đối với đất đai cụ thể như sau:
- "Quản lý đất đai là hoạt động bao gồm việc thiết lập các cơ chế, các
chính sách và các công cụ quản lý, các biện pháp quản lý và việc vận hành cơ
1
Bộ Tư pháp: Viện Khoa học Pháp lý - Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa & Nxb Tư pháp, Hà nội -
2006, tr. 633.
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
chế đó nhằm quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế
cao"
2
;
- " Quản lý nhà nước đối với đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về
đất đai"
3
;
Nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai được quy định tại Điều 6 Luật
đất đai năm 2003.
1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về đất đai
Nghiên cứu về quản lý nhà nước về đất đai cho thấy hình thức quản lý này
có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hình thức quản lý nhà nước về đất đai xuất hiện và gắn liền với
sự ra đời của Nhà nước. Trước hết nhằm bảo vệ những lợi ích của Nhà nước,
của giai cấp thống trị trong lĩnh vực đất đai. Nếu Nhà nước đại diện cho lợi ích
của toàn thể nhân dân thì mục đích của quản lý nhà nước đối với đất đai không
chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà còn bảo vệ lợi ích của người dân
liên quan đến đất đai;
Thứ hai, quản lý nhà nước về đất đai do Nhà nước thực hiện thông qua bộ
máy các cơ quan nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước (quyền lực công
hay còn được gọi là công quyền). Trong quá trình quản lý đất đai, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đất đai
buộc các đối tượng chịu sự quản lý là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân SDĐ phải
tuân theo;
Thứ ba, phạm vi của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai là lãnh thổ
của từng cấp đơn vị hành chính và toàn bộ vốn đất đai nằm trong đường biên
giới quốc gia. Hoạt động quản lý nhà nước về đất đai mang tính vĩ mô thể hiện ở
việc xây dựng, hoạch định chiến lược, chính sách về quản lý và SDĐ chứ không
hướng vào các hoạt động SDĐ mang tính tác nghiệp cụ thể.
2. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai ở nước ta
2
Trường Đại học Luật Hà Nội: Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (Phần Luật đất đai, Luật lao động, Tư pháp
quốc tế), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội -1999, tr.54.
3
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (Phần Luật đất đai, Luật lao động, Tư pháp quốc tế), Sdd, tr.54.
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
2.1. Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
Theo Từ điển tiếng Việt, hệ thống được hiểu là: “Tập hợp nhiều yếu tố,
đơn vị cùng loại hoặc cùng chức năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt
chẽ, làm thành một thể thống nhất”
4
;
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ra đời gắn liền với sự xuất
hiện của một hình thức quản lý đất đai của con người: Quản lý nhà nước về đất
đai. Hệ thống cơ quan này được Nhà nước thành lập và bằng pháp luật, Nhà
nước quy định cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm giúp Nhà
nước thống nhất quản lý toàn bộ vốn đất đai trong cả nước theo quy hoạch, kế
hoạch chung. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai chưa được các sách từ điển luật học, sách giải thích thuật ngữ luật học
ở nước ta định nghĩa một cách chính thống. Vì vậy nghiên cứu, tìm hiểu các quy
định về cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai và dựa trên khái niệm về hệ thống dưới góc độ ngôn
ngữ, chúng ta có thể quan niệm về hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
như sau:
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai là hệ thống cơ quan do Nhà
nước thành lập thống nhất từ trung ương xuống địa phương có cơ cấu, tổ chức
chặt chẽ và có mối quan hệ mật thiết với nhau theo quan hệ "song trùng trực
thuộc" thực hiện chức năng, nhiệm vụ giúp Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ
vốn đất đai trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương theo quy hoạch, kế
hoạch chung;
Hệ thống cơ quan này có đặc trưng là hệ thống cơ quan chuyên ngành
được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai. Trong hoạt động, cơ quan quản
lý đất đai cấp dưới chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan quản
lý đất đai cấp trên; đồng thời, chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Uỷ ban
nhân dân (UBND) cùng cấp. Đây chính là tính chất "song trùng trực thuộc"
trong hoạt động quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta
4
Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học, Hà Nội - 1994, tr.418.
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003, hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai ở nước ta bao gồm: (i) Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai có thẩm quyền chung gồm Chính phủ, UBND cấp tỉnh, UBND cấp
huyện, UBND cấp xã; (ii) Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có
thẩm quyền riêng gồm Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi
trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn.
Bên cạnh đó còn có sự tham gia của hệ thống cơ quan quyền lực vào hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai với vai trò đại diện cho nhân dân thực hiện chức
năng giám sát;
2.2.1. Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
Tại sao trong tiểu mục này, chúng tôi lại đề cập đến hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước là bởi vì xuất phát từ tính đặc thù của chế độ sở hữu đất đai
ở nước ta: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; Luật
đất đai 2003, xác định rõ thẩm quyền của cơ quan đại diện cho nhân dân là Quốc
Hội và HĐND các cấp (HĐND cấp tỉnh, HĐND cấp huyện, HĐND cấp xã)
trong việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Các cơ quan
này không làm thay chức năng quản lý nhà nước về đất đai của cơ quan quản lý
mà tham gia hoạt động quản lý nhà nước về đất đai với tư cách giám sát. Hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp trong lĩnh vực quản lý đất đai
được thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu sau đây:
- Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch
SDĐ của cả nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và SDĐ
trong phạm vi cả nước;
- HĐND các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật về đất
đai tại địa phương (khoản 1, 2 Điều 7 Luật đất đai năm 2003);
2.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung
Với chức năng quản lý Nhà nước về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
(trong đó có lĩnh vực quản lý đất đai), Chính Phủ và UBND các cấp có vai trò
10
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
rất quan trọng trong việc thực hiện nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Theo
đó:
- Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch SDĐ của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch SDĐ vào mục đích quốc phòng, an
ninh; thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước;
- UBND các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản
lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này
(khoản 2, 4 Điều 7 Luật đất đai năm 2003);
2.2.3. Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai được thành
lập thống nhất từ trung ương đến địa phương theo 4 cấp đơn vị hành chính: (i)
Cấp trung ương: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai ở trung
ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường, là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, môi trường, khí tượng thuỷ văn, đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước;
quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn
của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên đất,
tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc
và bản đồ theo quy định của pháp luật; (ii) Cấp tỉnh: Cơ quan chuyên ngành
quản lý nhà nước về đất đai ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Sở Tài
nguyên và Môi trường, là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh), giúp UBND cấp
tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước,
tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ trên
địa bàn tỉnh theo quy định của pháp luật. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự
chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh, đồng thời
chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi
trường; (iii) Cấp huyện: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Phòng Tài nguyên và Môi trường, là
cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
có chức năng quản lý Nhà nước về đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ trên địa bàn huyện theo
quy định của pháp luật; Phòng Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ
đạo, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên và Môi trường; (iv)
Cấp xã, phường, thị trấn: Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn (gọi chung là cán
bộ địa chính xã) giúp UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã)
thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường trong phạm vi xã, chịu
sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Sở Tài nguyên
và Môi trường và cơ quan chuyên môn giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước
về tài nguyên và môi trường.
2.2.4. Các tổ chức dịch vụ công trong quản lý về SDĐ
Tổ chức sự nghiệp công và tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai là
những khái niệm lần đầu tiên được đề cập trong Luật đất đai năm 2003. Các tổ
chức này ra đời nhằm phúc đáp yêu cầu của công cuộc cải cách các thủ tục hành
chính trong quản lý và sử dụng đất; góp phần đẩy nhanh sự hình thành thị
trường bất động sản (BĐS) có tổ chức và làm "lành mạnh hóa" các giao dịch
liên quan đến BĐS. Hơn nữa, sự ra đời của tổ chức sự nghiệp công và tổ chức
dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai đánh dấu sự chuyển đổi nền hành chính công
mang nặng tính chất quan liêu "cai trị, quản lý" sang nền hành chính mang tính
chất gần dân, tính chất "dịch vụ, phục vụ";
Khái niệm tổ chức sự nghiệp công được Luật đất đai năm 2003 định nghĩa
như sau: "Tổ chức sự nghiệp công là tổ chức do các cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập, có chức năng
thực hiện các hoạt động dịch vụ công do ngân sách nhà nước chi trả" (khoản 28
Điều 4). Với quan niệm này thì Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (Văn
phòng ĐKQSDĐ) là cơ quan dịch vụ công có chức năng tổ chức thực hiện đăng
ký sử dụng đất và biến động về sử dụng đất, quản lý hồ sơ địa chính và giúp cơ
quan tài nguyên và môi trường trong việc thực hiện thủ tục hành chính về quản
lý, sử dụng đất đai; Việc Văn phòng ĐKQSDĐ ra đời với chức năng, nhiệm vụ
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
được xác định cụ thể trên đây chính là Nhà nước đã xác lập mô hình "một cửa"
thực hiện cải cách các thủ tục hành chính về đất đai; giúp cho cơ quan quản lý
nhà nước về đất đai giảm áp lực từ nhu cầu thực hiện các thủ tục về đất đai từ
phía người dân và xã hội;
Bên cạnh đó, một loạt các tổ chức mới có một trong những chức năng là
thực hiện dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp trong lĩnh vực đất đai được
Luật đất đai năm 2003 cho phép thành lập; đó là: Tổ chức phát triển quỹ đất và
tổ chức hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai;
(i) Tổ chức phát triển quỹ đất: Tổ chức phát triển quỹ đất hoạt động theo
loại hình đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm
vụ công ích do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành
lập để thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng trong trường hợp thu hồi đất
sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được công bố mà chưa có dự án đầu tư,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu vực có quy hoạch phải thu
hồi đất mà người sử dụng đất có nhu cầu chuyển đi nơi khác trước khi Nhà nước
quyết định thu hồi đất; quản lý quỹ đất đã thu hồi và tổ chức đấu giá quyền sử
dụng đất theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với diện tích
đất được giao quản lý. Việc ra đời tổ chức phát triển quỹ đất đánh dấu việc
chuyển đổi công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng từ cơ chế hành chính (do
cơ quan công quyền thực hiện) sang cơ chế kinh tế (do doanh nghiệp thực hiện)
đáp ứng đòi hỏi của việc quản lý và sử dụng đất đai trong điều kiện kinh tế thị
trường;
(ii) Tổ chức hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai: Tổ chức sự
nghiệp có thu, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật thì được cấp phép hoạt động hoặc được đăng ký hoạt
động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai;
Các lĩnh vực hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai bao gồm:
- Tư vấn về giá đất;
- Tư vấn về lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Dịch vụ về đo đạc và bản đồ địa chính;
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Dịch vụ về thông tin đất đai;
3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống cơ quan quản lý
Nhà nước về đất đai ở nước ta
3.1. Giai đoạn trước năm 2003
Sau khi giành được chính quyền tháng 8 năm 1945, đất nước ta phải
đương đầu với "thù trong, giặc ngoài" và tiếp tục cuộc kháng chiến trường kỳ 9
năm chống thực dân Pháp. Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi,
miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước. Thời kỳ đó, ở miền Bắc, Nhà
nước chú trọng ưu tiên quản lý đất nông nghiệp nhằm góp phần thực hiện phong
trào "hợp tác hóa". Tổng cục khai hoang được thành lập nhằm chỉ đạo và quản
lý diện tích đất khai hoang. Đất canh tác được giao cho Bộ Canh nông, sau này
là Bộ Nông nghiệp quản lý. Các loại đất khác như đất xây dựng, đất ở, đất lâm
nghiệp v.v được giao cho các bộ, ngành khác nhau quản lý: Bộ Quốc phòng
quản lý đất quốc phòng, Bộ Xây dựng quản lý đất xây dựng và đất ở, Bộ Lâm
nghiệp quản lý đất lâm nghiệp. Tiếp đó để tăng cường công tác quản lý ruộng
đất trong cả nước, ngày 1/7/1980 Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) đã ban
hành Quyết định số 201/CP; theo đó, giao Tổng cục Quản lý ruộng đất chịu
trách nhiệm quản lý đất nông nghiệp. Các loại đất khác vẫn do các bộ, ngành
chức năng quản lý, sử dụng;
Luật đất đai năm 1987 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất
quản lý đất đai và giao nhiệm vụ này cho Tổng cục Địa chính. Hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về đất đai được thành lập thống nhất từ trung ương xuống địa
phương bằng việc thành lập Tổng cục Địa chính vào năm 1991. Ở các tỉnh, Ban
quản lý ruộng đất hoặc Sở Đo đạc và quản lý ruộng đất được thành lập. Các cơ
quan quản lý đất đai cũng được thành lập ở hầu hết các huyện trong cả nước.
Đội ngũ cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn cũng được thành lập với nhiệm vụ
giúp UBND cấp xã thực hiện công tác quản lý nhà nước ở cơ sở;
Tiếp đó, Luật đất đai năm 1993 ra đời ngày 14/7/1993 thay thế cho Luật
đất đai năm 1987 đã quy định rõ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét