Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đồng tài trợ trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Công thương Việt Nam

• Theo các tổ chức tài chính quốc tế như World Bank, IMF, ADB… “ Đồng
tài trợ là việc cho vay tài trợ các dự án hay các chương trình đặc biệt bằng
các nguồn vốn khác nhau trong đó có nguồn vốn ngân hàng”.
• Đối với các nhà tài trợ và luật gia thì “ Một khoản ĐTT là một phương diện
trợ giúp tài chính do từ hai hay nhiều định chế tài chính tham gia cung cấp
trên cơ sở một số điều khoản có sử dụng tài liệu văn bản chung và được
(hoặc không được) quản lý bởi một đơn vị chung”.
• Theo Quy chế ĐTT ban hành theo Quyết định 286/2002/NHNN ngày
3/4/2002 của Thống đốc NHNN Việt Nam “ Đồng tài trợ là quá trình tổ
chức thực hiện việc cấp tín dụng của bên ĐTT với sự tham gia của 2 hay
nhiều tổ chức tín dụng cho một hoặc một phần dự án, phương án sản xuất
kinh doanh, dịch vụ đầu tư phát triển và đời sống”.
Các khái niệm trên xét về bản chất đều thống nhất ở một điểm đó là ĐTT là hoạt
động cho vay của một nhóm từ 2 định chế tài chính trở lên, cho vay đối với các
dự án đầu tư nhằm mục đích cùng thu lợi nhuận và chia sẻ rủi ro.
Trong thực tế với khả năng và uy tín của mình trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
các ngân hàng thương mại có nhiều ưu thế để phát triển hoạt động ĐTT. Hoạt
động ĐTT của các ngân hàng thương mại là việc 2 hay nhiều ngân hàng cùng hợp
tác cho vay hoặc bảo lãnh một dự án đầu tư nhằm cùng thu lợi nhuận và chia sẻ
rủi ro”.
Từ khái niệm trên có thể hiểu dự án ĐTT của các ngân hàng thương mại là dự
án đầu tư được 2 hay nhiều ngân hàng thương mại cùng hợp tác cho vay hoặc bảo
lãnh. Đặc điểm của các dự án ĐTT thường là các dự án có số vốn vay lớn, thời
gian trả nợ kéo dài do đó có mức độ rủi ro cao hoặc các dự án đầu tư vào những
lĩnh vực có nhiều biến động, mức độ rủi ro cao nhưng có triển vọng đem lại nhiều
lợi ích to lớn về mặt kinh tế- xã hội. Đối với những dự án loại này, nếu chỉ dựa
vào khả năng của một tổ chức tín dụng thì mức độ rủi ro rất cao và ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động bình thường của tổ chức. Trong nhiều trường hợp các ngân
5
hàng thương mại bị giới hạn về hạn mức tín dụng không thể cho vay một lượng
vốn quá lớn đối với một dự án. Vì thế để cho vay được các dự án này, nhiều ngân
hàng sẽ cùng hợp tác, mỗi ngân hàng sẽ nhận tài trợ một phần số vốn vay. Việc
này tuy khá phức tạp nhưng tạo ra hiệu quả rất lớn, giúp các ngân hàng thương
mại vượt qua được hạn chế về hạn mức tín dụng, chia sẻ rủi ro.
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình CNH-HĐH rất cần đầu tư xây dựng các
công trình cơ sở hạ tầng trọng điểm với số vốn khổng lồ mà ngân sách Nhà nước
không thể đáp ứng đủ. Nhưng thông qua hoạt động của các ngân hàng thương
mại, trong đó có hoạt động ĐTT đã tập trung được nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân cư
thành những nguồn vốn lớn đủ sức đáp ứng yêu cầu đầu tư.
0.1.1.2 Vai trò của hoạt động ĐTT trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại.
Xu thế phát triển mạnh mẽ của ĐTT trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại ngày nay chứng tỏ ưu thế rõ rệt và vị trí chiến lược trong định hướng
phát triển và cho vay của các ngân hàng thương mại. Điều này là do vai trò ngày
càng tăng của hoạt động ĐTT. Vai trò đó được thể hiện ở mấy điểm chính sau:
• Giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương
mại.
Trong nền kinh tế thị trường, cho vay theo dự án là hình thức cho vay chủ yếu
của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên hình thức cho vay này cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro cho ngân hàng, nhất là đối với các dự án có nhu cầu vốn vay lớn, thời
hạn vay dài, mức độ rủi ro khó xác định. Nếu chỉ một ngân hàng cho vay có thể sẽ
không đáp ứng đủ nhu cầu vốn hoặc quá mạo hiểm. Trong trường hợp này ĐTT tỏ
ra là phương pháp hữu hiệu giúp các ngân hàng vẫn có thể cho vay đồng thời lại
hạn chế và chia sẻ rủi ro. Hoạt động ĐTT có ưu điểm là ngoài việc có thể phân
tán rủi ro cho các nhà tài trợ khác, các ngân hàng còn có thêm đối tác để đối chiếu
phân tích đánh giá dự án làm cho mức độ rủi ro giảm xuống. Với các nguyên tắc
6
và đặc điểm riêng có của mình, ĐTT ngày càng được các ngân hàng thương mại
coi là một giải pháp khả thi, hiệu quả cao nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín
dụng trung và dài hạn.
• Tăng khả năng liên kết giữa các ngân hàng trong hoạt động cho vay:
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại luôn phải cạnh tranh rất
quyết liệt nhưng đồng thời cũng phải hợp tác để chia sẻ cơ hội kinh doanh. Đa số
các ngân hàng thương mại thường hoạt động chuyên doanh, đầu tư chuyên sâu vào
một số ngành nghề nhất định, do đó sẽ thiếu kinh nghiệm trong việc thẩm định,
kiểm tra giám sát cũng như điều phối quá trình đầu tư đối với các ngành nghề
khác. Chính vì vậy họ có thể bổ sung cho nhau, khắc phục nhược điểm của chuyên
môn hoá cao và chuyển đổi sang đa dạng hoá cũng như hợp tác hoá. Việc tham gia
ĐTT một dự án khiến các ngân hàng có thể hiểu biết nhau hơn từ đó có thể cùng
nhau phối hợp, giữ vững thị phần tài trợ, tìm kiếm và phát triển thị trường mới.
Một tổ chức riêng lẻ có thể không tồn tại được trong cạnh tranh song khi liên kết
với nhau có thể giúp họ không những đứng vững mà còn phát triển mạnh mẽ hơn
mở rộng thị trường và ổn định thị phần của ngân hàng.
• Tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại:
Một thực tế phổ biến hiện nay là với những khoản vốn vay không quá lớn,
không vượt quá khả năng tài trợ của một ngân hàng thương mại, người ta vẫn áp
dụng phương pháp ĐTT. Sở dĩ như vậy là vì ĐTT giúp các ngân hàng thương mại
phát huy hết khả năng, thế mạnh của mình trong hoạt động tín dụng:
+ Hoạt động ĐTT giúp các ngân hàng thương mại có thể tận dụng hết khả
năng của mình trong quá trình cùng nhau thẩm định và quản lý khoản vay
thông qua việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm phòng ngừa rủi ro và cách thức
quản lý hiệu quả… từ đó tăng khả năng cho mỗi ngân hàng.
+ Đồng tài trợ giúp các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác kiểm
soát tín dụng: các ngân hàng khác nhau có thể trợ giúp nhau trong việc theo dõi
7
sử dụng vốn vay của chủ đầu tư, đặc biệt trong trường hợp vốn tín dụng được
giải ngân ngoài địa bàn hoạt động của ngân hàng cấp tín dụng.
+ Đồng tài trợ giúp các ngân hàng thương mại vượt qua khỏi các giới hạn
quy định của luật pháp: để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại, luật pháp mỗi nước quy định tỷ lệ mà các ngân hàng không được
cho vay vượt quá so với số vốn tự có (luật Các tổ chức tín dụng của Việt Nam
quy định tỷ lệ này là 15%). Trong khi nhu cầu vốn cho nền kinh tế rất lớn thì
các ngân hàng thương mại lại bị giới hạn về hạn mức tín dụng. Ngân hàng có
thể dư thừa vốn song lại không thể độc lập cho vay nếu dự án đó yêu cầu số
vốn vượt quá mức quy định của pháp luật, điều này có thể làm cho ngân hàng
mất đi một cơ hội kinh doanh, một mối quan hệ lâu dài với khách hàng, hạn chế
khả năng mở rộng thị phần. Để giải quyết các vấn đề này thì thực hiện hoạt
động ĐTT là cần thiết và thoả đáng, mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham
gia.
Như vậy vai trò của hoạt động ĐTT rất quan trọng. Nó có ưu thế hơn hẳn các
hình thức cấp tín dụng truyền thống khi các ngân hàng phải phải đầu tư một
khoản vốn lớn, có thời hạn dài.
0.1.2 Các loại hình dự án ĐTT.
Dự án ĐTT được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau với đối tượng tham
gia đa dạng. Vì vậy việc phân chia loại hình dự án phụ thuộc nhiều yếu tố như :
lĩnh vực tài trợ, đối tượng tài trợ, nhà tài trợ. Nhưng cách thông dụng nhất là dựa
vào phương thức tài trợ để phân chia dự án ĐTT. Theo phương thức tài trợ có 4
loại hình dự án ĐTT sau :
 Dự án ĐTT song song: phương thức này thường áp dụng đối với các dự án
có thể chia thành nhiều phần độc lập riêng biệt. Việc đầu tư từng phần của dự
án không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến kết quả của phần
khác. Trên cơ sở đó, ngân hàng thương mại sẽ tài trợ từng phần của dự án.
8
Việc tài trợ có thể được các ngân hàng thoả thuận hoặc không thoả thuận trước
với nhau cũng như có hoặc không có sự dàn xếp của bên thứ ba.
 Dự án ĐTT kết hợp: đây là phương thức phổ biến nhất của ĐTT. Theo
phương thức này các ngân hàng thương mại thoả thuận với nhau về tỷ lệ vốn
góp nhằm cấp tín dụng cho một dự án. Tỷ lệ vốn góp được thoả thuận tuỳ theo
khả năng của mỗi ngân hàng và vốn được giải ngân theo tiến độ dự án.
 Dự án ĐTT theo phương thức câu lạc bộ: Phương thức này thường xuất
hiện dưới hình thức tài trợ uỷ thác hoặc góp vốn đầu tư thông qua việc thành
lập quỹ đầu tư hoặc quỹ uỷ thác. Mỗi ngân hàng đều là hội viên của câu lạc bộ
góp vốn vào câu lạc bộ. Khi có dự án được thoả thuận tài trợ thì câu lạc bộ sẽ
rót vốn theo tiến độ dự án.
 Dự án ĐTT tuần hoàn: áp dụng đối với các dự án tương đối phức tạp, khó
chia thành các phần nhỏ và có thời gian đầu tư, thu hồi vốn tương đối dài.
Theo đó, một ngân hàng tài trợ cho giai đoạn đầu của dự án sẽ bán hay chuyển
giao quyền đòi nợ cho ngân hàng kế tiếp với tỷ lệ nhất định đã thoả thuận.
Thực chất đây là hoạt động ĐTT thông qua việc mua bán nợ. Tuy nhiên ngân
hàng bán nợ vẫn có trách nhiệm về khoản dư nợ đã bán trong phạm vi thoả
thuận ĐTT đã ký giữa các ngân hàng tham gia. Chủ nợ cuối cùng có quyền
truy đòi các chủ nợ trước theo hợp đồng đã ký.
Ngoài cách phân chia theo phương thức tài trợ, các dự án ĐTT còn được phân
chia chủ yếu theo hình thức cấp tín dụng. Theo đó có ba loại hình dự án ĐTT là:
 Cho vay, cho vay hợp vốn: đây là hình thức cấp tín dụng chủ yếu nhất của hoạt
động ĐTT. Đó là việc các ngân hàng cùng tham gia cho vay một dự án. Sở dĩ
cho vay hợp vốn là hình thức phổ biến là vì nó khắc phục nhược điểm của các
ngân hàng thương mại về hạn mức tín dụng , khả năng tài chính, khả năng
thẩm định về quản lý khoản vay đồng thời góp phần mở rộng quan hệ hợp tác
giữa các ngân hàng với nhau.
9
 Bảo lãnh, đồng bảo lãnh: bản chất của bảo lãnh chính là hoạt động tín dụng vì
trong trường hợp doanh nghiệp không thực hiện được cam kết trả nợ của mình
thì ngân hàng tổ chức bảo lãnh phải trả nợ thay doanh nghiệp. Vì vậy hoạt
động bảo lãnh cũng mang nhiều rủi ro cho ngân hàng như hoạt động tín dụng.
Đối với các khoản bảo lãnh lớn khi xảy ra rủi ro ngân hàng phải trả nợ thay có
thể sẽ bị mất khả năng thanh toán. Vì vậy các ngân hàng thực hiện hoạt động
đồng bảo lãnh nhằm mục đích cùng thu phí bảo lãnh và cùng chia sẻ khi gặp
rủi ro.
 Kết hợp các hình thức trên.
Ngoài ra tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước mà ĐTT còn được thực
hiện dưới các hình thức cấp tín dụng khác.
0.1.3 Qui trình cho vay một dự án ĐTT.
Việc cho vay một dự án ĐTT điển hình gồm 3 giai đoạn: dàn xếp, giải ngân và
cuối cùng là thu nợ. Trong đó giai đoạn dàn xếp được coi là giai đoạn quan trọng
nhất và là nền tảng của quá trình ĐTT.
0.1.3.1 Dàn xếp ĐTT
Sau khi nhận hồ sơ đề nghị cấp tín dụng theo quy định đối với từng loại hình
cấp tín dụng do khách hàng gửi, ngân hàng thương mại thực hiện thẩm định sơ
bộ, nhận định tính khả thi của dự án đề nghị vay vốn. Ngay sau khi thẩm định sơ
bộ xong nếu dự án có tính khả thi và cần thiết phải ĐTT, ngân hàng thương mại
nhận hồ sơ sẽ dự kiến các tổ chức tín dụng tham gia để gửi thư mời ĐTT kèm
theo kết quả thẩm định. Nếu dự án không có tính khả thi, ngân hàng thương mại
sẽ trả lời khách hàng bằng văn bản có nêu rõ lý do từ chối cấp tín dụng
Giai đoạn này có thể chia nhỏ như sau:
• Chuẩn bị dàn xếp: là quá trình kể từ khi ngân hàng chấp nhận đề nghị của
bên nhận tài trợ cho đến khi có biên bản ghi nhớ. Ngân hàng dàn xếp có
nhiệm vụ xác định độ tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ tiềm năng. Thông
10
thường, độ tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ được các ngân hàng thương
mại đánh giá một cách thường xuyên liên tục thông qua hệ thống thông tin về
khách hàng tiềm năng. Căn cứ đánh giá đó là tư cách pháp lý, kết quả tài
chính, uy tín trong quá khứ, giá trị cổ phiếu trên thị trường.
Dựa trên kết quả đánh giá độ tin cậy tín dụng và tính khả thi của dự án, ngân
hàng dàn xếp sẽ dự thảo một văn bản nêu rõ các điều kiện và điều khoản ĐTT.
Khi biên bản này được bên nhận tài trợ chấp nhận, ngân hàng dàn xếp và bên
nhận tài trợ sẽ ký kết một biên bản ghi nhớ về các điều kiện và điều khoản tài
trợ cũng như thông tin về dự án. Trong biên bản ghi nhớ còn phải ghi rõ
phương thức ủy quyền. Việc lựa chọn phương thức ủy quyền nào phụ thuộc
vào mô hình ĐTT mà 2 bên lựa chọn. Có 2 phương thức ủy quyền là:
+ Cam kết chắc chắn: ngân hàng dàn xếp cam kết chắc chắn với bên nhận tài
trợ về việc dàn xếp một khoản tài trợ cụ thể. Nếu việc mời các ngân hàng tham
gia không được dàn xếp thành công, ngân hàng dàn xếp sẽ phải đảm nhận tài
trợ toàn bộ số tiền đã cam kết hoặc tổ chức một cuộc dàn xếp mới.
+ Cam kết với nỗ lực tối đa: ngân hàng dàn xếp sẽ thông báo cho bên nhận
tài trợ việc họ sẵn sàng dàn xếp với một số điều kiện nhất định. Nếu khoản
ĐTT không được dàn xếp thành công, bên nhận tài trợ sẽ phải tìm kiếm một
nguồn tài trợ mới từ một nơi khác.
• Lựa chọn các bên tham gia: việc lựa chọn các bên tham gia phải tuân thủ
các thỏa thuận trong bản ghi nhớ và ủy quyền của bên nhận tài trợ. Do vậy khi
ngân hàng dàn xếp dự định mời ngân hàng nào tham gia phải xem xét tới một
số yếu tố như: quy mô khoản ĐTT có thích hợp với ngân hàng mời tham gia
hay không, ý thích của khách hàng về ngân hàng mời tham gia, khả năng đón
nhận khoản ĐTT này trên thị trường…. Trên thực tế các ngân hàng dàn xếp
thường lựa chọn các ngân hàng tham gia là bạn hàng truyền thống hay cụ thể
hơn là những ngân hàng đã từng cùng họ đạt được thành công trong quá khứ
trên lĩnh vực ĐTT.
11
• Mời tham gia: ngân hàng dàn xếp gửi thư mời các ngân hàng có thể là
đối tác tiềm tàng nhất tham gia ĐTT cho dự án. Thư mời ĐTT phải có các nội
dung chủ yếu về dự án như tên dự án, chủ đầu tư, tổng vốn đầu tư, nhu cầu
ĐTT để thực hiện dự án, thời gian vay và trả nợ, thời gian bảo lãnh, dự kiến lãi
suất và phí các loại, phương án trả nợ và các thông tin chủ yếu về dự kiến đề
nghị tham gia ĐTT: phương thức tham gia ĐTT, thời hạn ĐTT, cơ cấu ĐTT,
điều kiện cho vay…
Về phía các tổ chức tín dụng được mời tham gia căn cứ vào đề nghị của ngân
hàng dàn xếp và các tài liệu gửi kèm cũng như nguồn thông tin về khách hàng
của mình phân tích dự án trước khi quyết định có tham gia hay không. Sau khi
có quyết định, ngân hàng được mời sẽ trả lời ngân hàng dàn xếp về nguyên tắc
có tham gia ĐTT không, nếu tham gia thì sẽ cho vay với số tiền tối đa bao
nhiêu và các điều kiện kèm theo.
• Thẩm định dự án ĐTT: Sau khi đạt được thỏa thuận đồng ý tham gia ĐTT,
các ngân hàng lựa chọn và quyết định ngân hàng đầu mối ĐTT, thành viên đầu
mối cấp tín dụng, tổ chức đầu mối thanh toán. Tiếp theo các ngân hàng sẽ
quyết định phương thức tổ chức thẩm định dự án. Thông thường có hai
phương thức tổ chức thẩm định dự án là:
+ Thành lập hội đồng thẩm định chung với thành viên là các chuyên viên
của các ngân hàng. Sau khi thành lập Hội đồng thẩm định chung, các thành
viên cùng thẩm định dự án sẽ áp dụng quy trình, nội dung thẩm định dự án
ĐTT như một dự án bình thường. Việc thành lập Hội đồng thẩm định chung có
ưu điểm có thể kết hợp tối đa nguồn thông tin về khách hàng và dự án cũng
như thế mạnh của mỗi ngân hàng. Tuy nhiên việc thành lập Hội đồng thẩm
định chung có thể gây ra khó khăn cho việc đưa ra đánh giá chung phù hợp
quan điểm của mỗi ngân hàng.
12
+ Nếu không thành lập Hội đồng thẩm định chung thì các ngân hàng có thể
thống nhất ủy quyền cho ngân hàng đầu mối thẩm định hoặc mỗi ngân hàng sẽ
tự thẩm định riêng.
. Trường hợp ngân hàng đầu mối được ủy quyền thẩm định đòi hỏi các ngân
hàng phải hoàn toàn tin tưởng nhau và kết quả thu được sẽ thống nhất
. Trường hợp các ngân hàng tự tiến hành thẩm định riêng tuy có tính an toàn
cao hơn nhưng đòi hỏi các ngân hàng mất nhiều thời gian công sức hơn và có
thể đưa ra những kết quả thẩm định khác nhau. Nếu như một ngân hàng có kết
quả thẩm định trái với đa số và ngân hàng đầu mối phải mời một ngân hàng
khác tham gia thì sẽ mất nhiều thời gian để đưa ra quyết định cho vay.
• Cơ cấu khoản ĐTT: Bước tiếp theo các ngân hàng sẽ thảo luận về cơ cấu
của khoản ĐTT. Cơ cấu khoản ĐTT phải thỏa mãn được yêu cầu của các bên
tham gia và đòi hỏi của thị trường. Ttrong cơ cấu khoản ĐTT có các thành
phần cơ bản sau:
+ Giá của khoản ĐTT: bao gồm tất cả các chi phí để nhận được khoản ĐTT,
chia thành: chi phí thanh toán ngay lúc bắt đầu nhận khoản vay (chi phí dàn
xếp, phí bảo lãnh, phí bảo hiểm tín dụng…) và chi phí được tính hàng năm (lãi
tính trên dư nợ, phí quản lý, phí thanh toán, phí cam kết sử dụng vốn).
. Lãi suất ĐTT thường được tính như sau:
Lãi suất ĐTT = lãi suất cơ bản + mức chênh lệch
Lãi suất cơ bản do thị trường Liên ngân hàng Lonđon đưa ra (LIBOR).
Chọn LIBOR với thời hạn 1,3, 6, 12 tháng hay bất kỳ một kỳ hạn nào đều do
thỏa thuận của bên tài trợ với bên nhận tài trợ.
Mức chênh lệch phản ánh độ tín nhiệm của người vay và phụ thuộc vào quy
mô, thời gian, tính phức tạp và các điều kiện khác của khoản vay cũng như độ
tin cậy tín dụng của bên nhận tài trợ. Như vậy có thể nói mức chênh lệch cụ
thể mà bên nhận tài trợ phải trả phụ thuộc vào mức xếp hạng tín dụng, khả
năng chấp nhận khoản ĐTT trên thị trường tín dụng, tính sẵn có của nguồn
13
vốn trên thị trường, khuynh hướng vận động lãi suất trên thị trường. Bên cạnh
đó chất lượng của các biện pháp bảo đảm khoản vay cũng ảnh hưởng đến việc
xác định mức chênh lệch.
. Phí dàn xếp là lệ phí mà ngân hàng dàn xếp được hưởng trên cơ sở là
người đứng ra dàn xếp khoản ĐTT. Phần lệ phí này cao hay thấp phụ thuộc
vào sự thỏa thuận giữa ngân hàng dàn xếp và bên nhận tài trợ hay nói cách
khác nó phụ thuộc vào mức độ ủy quyền. Nếu ngân hàng dàn xếp thực hiện
một cam kết chắc chắn thì mức phí thường cao hơn từ 2-3 lần phí cam kết thực
hiện với nỗ lực tối đa. Ngoài ra phí dàn xếp còn phụ thuộc vào uy tín và kinh
nghiệm của ngân hàng đầu mối trong quá khứ. Ngân hàng càng uy tín, nổi
tiếng thì mức phí càng cao . Phí này được tính là tỷ lệ % trên tổng số tiền cấp
tín dụngcho dự án theo phương thức ĐTT. Các bên thanh toán phí này (1 lần )
cho ngân hàng đầu mối sau khi dàn xếp ĐTT thành công vào ngày giải ngân
đầu tiên/ngày ký phát chứng thư bảo lãnh/ngày mở LC trả chậm.
. Phí quản lý: các bên tham gia quản lý khoản ĐTT được hưởng phần phí
này do họ là người đứng ra quản lý vốn đóng góp tham gia ĐTT , đảm bảo vốn
đó được sử dụng đúng mục đích, theo dõi thu nợ gốc, lãi, quản lý tài sản thế
chấp cầm cố. Phí này được tính là tỷ lệ % nằm trong lãi suất tài trợ cho dự án
(tính trên dư nợ thực tế của số tiền cấp tín dụng trong thời gian dự án còn dư
nợ). Trường hợp ngân hàng đầu mối thực hiện dàn xếp ĐTT và thực hiện luôn
các nghiệp vụ liên quan đến cấp tín dụng thì được hưởng cả hai loại phí trên.
Mức phí có thể tính chung tỷ lệ % trong lãi suất tài trợ cho dự án hoặc tính như
trên.
. Phí thanh toán: trong quá trình thực hiện ĐTT, khi cung cấp các dịch vụ
thanh toán, tổ chức đầu mối thanh toán thu phí này từ bên nhận tài trợ.
. Phí cam kết sử dụng vốn: phí này là tỷ lệ % tính trên số tiền chưa giải
ngân cho dự án, tính từ ngày hợp đồng cấp tín dụng có hiệu lực cho đến ngày
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét