Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

246381

Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô chú, các anh chị tại PHÒNG PHÁP
CHẾ - NGÂN HÀNG TECHCOMBANK đã giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn
thành tốt thời gian thực tập và báo cáo tốt nghiệp của mình.
Với thầy cô giáo trong KHOA LUẬT – TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
QUỐC DÂN, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô đã giúp đỡ em trong 4
năm học tập ở trường cũng như trong thời gian thực tập, đặc biệt là cô giáo PGS.TS
NGUYỄN THỊ THANH THỦY, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện
cho em hoàn thành xuất sắc bài báo cáo tốt nghiệp “Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân
hàng Techcombank” của mình.
TRẦN HỒNG NHUNG
KHOA LUẬT K48
2006 - 2010
CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
5
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
I/ KHÁI QUÁT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ CÁC BIỆN
PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH
1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1 Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp cần có nguồn vốn
tốt. Nguồn vốn này có thể là vốn tự có, và có thể là vốn vay từ các ngân hàng và các
TCTD. Chính vì thế, trong khoảng 10 năm trở lại đây, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản pháp lý xung quanh vấn đề bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay,
không có một văn bản có hiệu lực pháp lý nào định nghĩa về “bảo đảm tiền vay”. Ngày
29/12/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay
của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi là Nghị định 178/1999/NĐ-CP) trong đó có định
nghĩa “bảo đảm tiền vay” như sau: “Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các biện
pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp luật để thu hồi được các khoản
nợ đã cho khách hàng vay” (Điều 2.1 Nghị định 178/1999/NĐ-CP). Tuy nhiên, ngày
29/11/2006, Chính phủ lại ban hành Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm
(sau đây gọi là Nghị định 163/2006/NĐ-CP), thay thế cho Nghị định 178/1999/NĐ-CP.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP không đưa ra định nghĩa về “bảo đảm tiền vay” mà chỉ quy
định thế nào là “bên bảo đảm”, “bên nhận bảo đảm”, “bên bảo đảm ngay tình”. Như vậy,
trong tất cả các văn bản pháp lý có hiệu lực tính đến năm 2009, không một văn bản nào
đưa ra khái niệm chuẩn về “bảo đảm tiền vay”. Tuy vậy, với quan điểm riêng của mình
và căn cứ vào các quy định của Nghị định 163/2006/NdĐ-CP thì “bảo đảm tiền vay”
chính là “những biện pháp được các TCTD áp dụng cho các hoạt động tín dụng của mình
với mục đích làm tăng khả năng thu hồi khoản tiền đã cho vay”.
Với định nghĩa trên, ta thấy bảo đảm tiền vay có ba vai trò chính và quan trọng
nhất, đó là:
Thứ nhất, bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý để các TCTD thu hồi khoản nợ của
khách hàng đối với mình.
6
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
Trước khi cho vay một khoản tiền, các TCTD thường yêu cầu khách hàng của
mình phải đảm nảo cho khoản tiền vay bằng tài sản để lương trước sự rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của khách hàng. Thông qua hợp đồng tín dụng, hai bên thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Trường hợp khách hàng vay
không có khả năng trả nợ, ngân hàng có toàn quyền quyết định việc xử lý tài sản bảo đảm
đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và sử dụng tài sản đó để khấu trừ vào khoản nợ
của khách hàng. Để hoạt động kinh doanh tiến hành thuận lợi, đảm bảo lợi ích của các
bên, TCTD dùng các biện pháp bảo đảm tiền vay đảm bảo cho ngân hàng thu hồi nợ.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm giảm rủi ro trong hoạt động tín
dụng của các TCTD.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD là điều không thể tránh khỏi. Các
TCTD cho khách hàng vay tiền với mục đích gián tiếp đầu tư khoản tiền đó, thông qua
các hoạt động kinh doanh, hoạt động sản xuất, dự án đầu tư… của khách hàng và thu lợi
nhuận từ khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, các dự án kinh doanh, sản xuất hay đầu tư của
khách hàng không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ và có lợi nhuận. Điều này phụ thuộc
vào sự biến động của thị trường và cơ hội kinh doanh của khách hàng, là những yếu tố
khó đoán trước (mặc dù khi đi vay, khách hàng luôn đưa ra lý do thuyết phục nhất, thể
hiện khả năng thu lời cao nhất để TCTD cho mình vay tiền). Vì vậy, ngân hàng cần áp
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để đảm bảo rằng trong trường hợp khách hàng của
mình không thể trả khoản nợ đã vay, ngân hàng vẫn có thể thu hồi khoản tiền đã cho vay
(một phần hoặc tất cả khoản vay). Bảo đảm tiền vay là biện pháp giúp ngân hàng giảm
rủi ro trong hoạt động cho vay tài chính của mình.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay bảo vệ quyền lợi và hạn chế tranh chấp xảy ra giữa các
bên tham gia hoạt động tín dụng.
Trong hợp đồng tín dụng được kí kết giữa khách hàng và các TCTD, các bên có
quyền thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp khách hàng không trả nợ được khoản tiền đã vay, TCTD có toàn quyền
đối với tài sản bảo đảm theo như đã thỏa thuận trong hợp đồng và quyền lợi của TCTD
sẽ không bị xâm phạm. Tranh chấp giữa khách hàng vay và TCTD cũng sẽ được hạn chế
bởi các bên chỉ bị xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận đã nêu trước đó trong hợp đồng
tín dụng.
7
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Hiện nay trong các văn bản pháp luật hiện hành, không một văn bản nào đưa ra
định nghĩa về “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản”. Căn cứ vào cách giải thích từ
ngữ quy định tại Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ta có thể hiểu “biện pháp bảo đảm
tiền vay bằng tài sản” chính là việc sử dụng tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định rõ các biện pháp nào là biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản, tuy nhiên Khoản 1 Điều 3 Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP lại
quy định: “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Cầm cố, thế chấp bằng tài
sản của khách hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài
sản hình thành từ vốn vay.”
Về bản chất, bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính là việc bên bảo đảm xác nhận
trong hợp đồng tín dụng về quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản mà bên bảo đảm
đưa ra để bảo đảm cho khoản vay của mình, trong trường hợp bên bảo đảm không thực
hiện được nghĩa vụ trả nợ. Bên nhận bảo đảm sẽ có toàn quyền quyết định đối với tài sản
đó. Nếu bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp chính tài sản của khách hàng vay thì đối
tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của người bảo đảm.
Tài sản đó được đem ra bảo đảm cho chính nghĩa vụ trả nợ của người đó đối với ngân
hàng. Nếu bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh thì đối tượng
trực tiếp được đưa ra bảo đảm là sự cam kết. Khi nghĩa vụ đã cam kết giữa bên được bảo
lãnh và bên nhận bảo đảm bị vi phạm thì bên bảo lãnh mới sử dụng tài sản của mình để
thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nếu bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành
từ vốn vay thì tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai.
Như vậy, nhìn chung các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là sự thỏa thuận của các
bên tham gia quan hệ tín dụng.

Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy định:
“TCTD có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo
8
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu
trách nhiệm về quyết định của mình. TCTD không được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng
cổ phiếu của chính TCTD cho vay.”
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hoàn toàn không bắt buộc, và phụ
thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, các bên thỏa
thuận để bảo đảm quyền lợi của mình không bị xâm phạm khi một bên vi phạm hợp đồng
tín dụng.
Thứ hai: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp mang tính dự
phòng.
Tính dự phòng của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thể hiện ở chỗ tài
sản bảo đảm chỉ được đem ra xem xét và giải quyết khi người đi vay không thực hiện
được nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình đối với bên cho vay. Tính
dự phòng này giúp kích thích người đi vay nâng cao nghĩa vụ trả nợ của mình. Tài sản
của họ sẽ không bị xử lý nếu họ thực hiện đúng theo thỏa thuận đã nêu trong hợp đồng
bảo đảm tiền vay, hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Các loại biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định tại Khoản 1 điều
318 BLDS 2005. Trên thực tế có những biện pháp sau: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
khách hàng; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay, là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được ngân hàng áp
dụng:
- Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 BLDS 2005).
Việc chuyển giao tài sản bảo đảm trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ
được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản khi bên nhận cầm cố hoặc người thứ
ba được bên nhận cầm cố ủy quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản cầm cố có thể do bên
nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ ba giữ tài sản. (Điều 16
Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
9
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
- Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây
gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp (khoản
1 Điều 342 BLDS 2005).
Hợp đồng cầm cố tài sản và thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, ghi rõ
giá trị tài sản và thời hạn đảm bảo.
Có hai điểm khác biệt quan trọng giữa hai biện pháp cầm cố và thế chấp mà ta cần
lưu ý như sau:
Thứ nhất: Việc chuyển giao tài sản: Nếu áp dụng biện pháp cầm cố thì tài sản
phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ.
BLDS 2005 không căn cứ vào việc phân biệt tài sản bảo đảm là động sản hay bất
động sản để quy định hình thức hợp đồng bảo đảm là cầm cố hay thế chấp, mà căn cứ
vào tiêu chí là khả năng dịch chuyển của tài sản. Nếu là cầm cố tài sản thì phải chuyển
giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố. Còn nếu là thế chấp tài sản thì không
phải chuyển giao tài sản từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp chỉ
phải giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng của mình đối với tài sản cho
bên nhận thế chấp.
Thứ hai: Người thứ ba giữ tài sản cầm cố và người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp, việc người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do cả hai
bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận và thống nhất ý kiến, đồng thời người này
có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 352 và Điều 353 BLDS 2005. Còn
trường hợp cầm cố, việc người thứ ba giữ tài sản hoàn toàn do ý chí của bên nhận cầm cố
thông qua việc ủy quyền. Thực chất, quan hệ giữa bên nhận cầm cố và người thứ ba giữ
tài sản cầm cố là quan hệ độc lập mang tính chất của hợp đồng gửi giữ tài sản. Do đó,
ngay cả khi người thứ ba giữ tài sản thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm trước
bên cầm cố về việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 332 BLDS 2005 và các
nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa thuận.
- Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc
10
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361 BLDS 2005).
Thông qua biện pháp bảo lãnh, chủ nợ (bên có quyền) có được một con nợ dự bị
(bên có nghĩa vụ), bên cạnh con nợ chính. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng vay trở
thành con nợ của ngân hàng thông qua hợp đồng cho vay. Đó là con nợ chính. Còn người
bảo lãnh cho khách hàng vay sẽ phải thực hiện nghĩa vụ như con nợ, nếu con nợ không
thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, dựa trên cam kết bảo lãnh. Đó chính là con nợ dự bị.
Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một quan hệ độc lập, có thể
phát sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao)
hoặc phát sinh từ quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Bên bảo lãnh phải có tài sản lớn
hơn tài sản mà họ đứng ra bảo lãnh.
Thay đổi về các biện pháp bảo lãnh.
BLDS 2005 không định nghĩa “bảo lãnh bằng tài sản” như các văn bản trước đây
và cũng không có quy định về việc cấm các bên xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự theo hình thức “bảo lãnh bằng tài sản” và trong trường hợp này
gọi là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
BLDS 2005 đưa ra quy định riêng về xử lý tài sản bảo lãnh. Điều 369 BLDS 2005
quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh
mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh
phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”.
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay và các điều kiện về tài sản bảo đảm.
1.3.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay.
Với ba vai trò chính và quan trọng của bảo đảm tiền vay như đã phân tích tại Phần
1.1 – Chương I (là cơ sở pháp lý để các TCTD thu hồi khoản nợ của khách hàng đối với
mình và là biện pháp giúp giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD), biện
pháp bảo đảm tiền vay được hầu hết tất cả các ngân hàng và các TCTD hiện nay áp dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản lại được ưu tiên sử dụng rộng rãi và thường xuyên
hơn cả. Các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản có độ an toàn cao hơn những khoản vay
11
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
áp dụng các biện pháp bảo đảm khác. Trường hợp có vi phạm hợp đồng và có tranh chấp
giữa bên vay (khách hàng) và bên cho vay, thì độ rủi ro của khoản vay có tài sản bảo
đảm cũng giảm thấp hơn so với các khoản vay không có tài sản bảo đảm. Với sự biến
động khó lường của thị trường, sự cạnh tranh cao giữa các nhà sản xuất, những khó khăn
không thể đoán trước được trong quá trình hoạt động kinh doanh … khiến thua lỗ, phá
sản có khả năng xảy ra cao. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản sẽ tăng độ an
toàn cho các khoản vay, hạn chế các tổn thất của các TCTD khi khách hàng không có khả
năng trả nợ cho khoản tiền mình đã vay. Như vậy, tài sản bảo đảm đóng vai trò quan
trọng, chủ yếu nhất trong hoạt động cho vay của các TCTD.
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP định nghĩa về tài sản bảo đảm như
sau: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên nhận bảo đảm”.
Tài sản được dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay rất phong phú và đa dạng. Ngoài
các loại tài sản được quy định tại BLDS 2005: Bất động sản và động sản; quyền tài sản,
hiện nay pháp luật Việt Nam cũng cho phép sử dụng tài sản hình thành trong tương lai
làm tài sản bảo đảm nghĩa vụ. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định:
“Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời
điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành
trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch
bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo
đảm.”
Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương
lai thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên
nhận bảo đảm có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Ví dụ: “Ngân hàng
nhận bảo đảm bằng công trình xây dựng hình thành trong tương lai, thì khi bên bảo đảm
hoàn thành hạng mục nào của công trình, ngân hàng cũng có ngay quyền xử lý đối với
hạng mục đó để thu hồi nợ, chứ không phải chờ đến khi công trình được hoàn thành đồng
bộ mới được coi là tài sản bảo đảm.”
Đối với tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm
chưa đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý. Ví dụ:
“Ngân hàng tài trợ vốn để xây dựng nhà ở và nhận bảo đảm bằng chính ngôi nhà sẽ được
12
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
xây, thì ngân hàng có quyền xử lý ngôi nhà để thu hồi nợ kể cả khi con nợ chưa làm thủ
tục cấp sổ hồng.”
Tài sản hình thành trong tương lai là đối tượng của quan hệ thế chấp. Bên thế chấp
có nghĩa vụ tạo điều kiện để bên nhận thế chấp thực hiện quyền giám sát, kiểm tra quá
trình hình thành tài sản. Việc giám sát, kiểm tra của bên nhận thế chấp không được cản
trở hoặc gây khó khăn cho việc hình thành tài sản.
“Tài sản hình thành từ vốn vay” về bản chất chính là tài sản hình thành trong
tương lai, tuy nhiên giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay của
khách hàng vay. Trên thực tế, ngân hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn vay để
bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đã được đầu tư vào tài sản đó, đặc biệt, lại
phải xác định số tiền vay cho phù hợp với quy định số tiền vay phải nhỏ hơn giá trị tài
sản đem bảo đảm. Xảy ra tình trạng này là vì tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ vay, ngân
hàng chỉ có thể đánh giá tài sản hình thành trong tương lai thông qua các hồ sơ, giấy tờ
liên quan mà khách hàng vay cung cấp, tuy nhiên giá trị tài sản hình thành trong tương lai
lại thay đổi lên xuống khó lường tùy theo biến động của thị trường. Chính vì vậy, các
ngân hàng và TCTD thường thắt chặt hạng mục cho vay thế chấp bằng tài sản hình thành
từ vốn vay.
1.3.2. Các điều kiện để tài sản trở thành tài sản bảo đảm.
Như đã phân tích tại phần 1.3.1, tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành rất phong phú và đa dạng, nhưng không phải tất cả các loại tài sản đều có thể
được sử dụng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Để trở thành tài sản bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ thì tài sản phải thoả mãn một số điều kiện sau:
Thứ nhất: Tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của bên bảo đảm (Điều 320 BLDS 2005).
“Điều 320 BLDS 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo
đảm và được phép giao dịch.
2. Vật dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình
thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở
hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được
giao kết.”
13
Khoa Luật – Trường ĐH KTQD Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010) Mã SV: CQ482104
Điều kiện này được đặt ra bởi trên thực tế, khi bên bảo đảm không thực hiện được
nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thì tài sản bảo
đảm lúc này sẽ bị đưa ra phát mại để thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng tín dụng.
Do đó, tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Để chứng minh được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, bên bảo đảm phải xuất
trình các giấy tờ, tài liệu, và các văn bản có liên quan thể hiện quyền sở hữu hợp pháp
của mình đối với tài sản đó.
Tài sản thuộc sở hữu của nhiều người đem ra làm tài sản bảo đảm phải được cam
kết bằng văn bản của các đồng sở hữu và tài sản đó không có tranh chấp.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể, tài sản của doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ
phần, công ty TNHH phải có nghị quyết bằng văn bản của Hội đồng quản trị hoặc Đại
hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên đồng ý và ủy quyền cho người đại diện vay
vốn và ký hợp đồng bảo đảm. Tài sản của hộ gia đình phải có cam kết đồng ý của các
đồng sở hữu trong gia đình.
Tuy nhiên, có một ngoại lệ nằm ngoài quy định này. Đối với Doanh nghiệp Nhà
nước khi cầm cố tài sản của nhà nước giao cho doanh nghiệp để vay vốn ngân hàng thì
tài sản đó chỉ phải thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp đó và là tài
sản được dùng để bảo đảm tiền vay (khoản 3 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
Thứ hai: Tài sản bảo đảm tiền vay phải được phép giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của
pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Tài sản bị hạn chế giao dịch, lưu thông
với những điều kiện nhất định thì vẫn được coi là tài sản được phép giao dịch, nhưng khi
xử lý tài sản bảo đảm thì phải tuân thủ đầy đủ điều kiện đó.
Điều kiện này bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm. Trong trường hợp
bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên
nhận bảo đảm vẫn giữ được quyền và lợi ích của mình. Nếu tài sản bảo đảm thuộc loại
tài sản bị pháp luật cấm giao dịch, bên nhận bảo đảm sẽ không được đảm bảo về mặt
pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm và sẽ gặp nhiều tổn thất. Do đó, tài sản bảo đảm phải là
tài sản được phép giao dịch.
Thứ ba: Tài sản không có tranh chấp.
14

Xem chi tiết: 246381


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét