Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể

mượn tài sản là 1.1992m2 đất để thế chấp vay. A,B,C đã lập 1 biên bản giả
có nội dung: công ty uỷ quyền cho A mua đất chứ không phải đất của A.
Nhưng biên bản này không được Ngân hàng chấp nhận vì thế họ đã phải làm
thủ tục bảo lãnh cho công ty vay tiền Ngân hàng bằng quyền sử dụng đất của
A. Tháng 4/2005 A xin rút khỏi Công ty và Công ty chỉ còn 2 thành viên B
và C. Đến tháng 6/2005 Công ty trả hết nợ, lấy các giấy tờ bảo lãnh tại ngân
hàng, nhưng không trả lại giấy tờ đất cho A mà lại tiến hành khởi kiện đòi A
phải giao đất cho công ty. Căn cứ kiện là biên bản giả lập ban đầu mà A sơ
suất không huỷ sau khi Ngân hàng không chấp nhận. Vậy, A có thể làm gì
để bảo vệ quyền lợi của mình đối với mảnh đất?
Như vậy, biên bản có nội dung "diện tích 1.992m2 là tài sản của công
ty, ông A chỉ là người đứng tên" chỉ là biên bản giả được các thành viên
công ty thoả thuận lập ra nhằm mục đích để Ngân hàng cho vay tiền (vì theo
quy định người vay phải có tài sản thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho
khoản vay). Tuy nhiên Ngân hàng đã không chấp nhận biên bản này mà yêu
cầu ông A đứng ra bảo lãnh cho khoản vay của Công ty (vì ông A là người
đứng tên quyền sử dụng đất). Yêu cầu của Ngân hàng là phù hợp với quy
định của điều 366 Bộ luật dân sự cụ thể: "1. Bảo lãnh là việc người thứ ba
(gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là người được bảo
lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. 2. Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng
tài sản thuộc sở hữu của mình" .
Việc Ngân hàng đã chấp nhận sự bảo lãnh của ông A (bằng tài sản
1.992m2 đất do ông đứng tên) và cho Công ty của ông vay tiền là căn cứ để
chứng minh: biên bản do 3 thành viên của công ty lập chỉ là giao dịch dân sự
giả tạo còn giấy tờ đất đứng tên ông mới là giao dịch thật. Căn cứ điều 138
Bộ luật dân sự quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo như sau: "Khi
các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch
khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực".
Vì ông A đã sơ suất không huỷ biên bản giả này nên Công ty (cụ thể là
2 thành viên B và C còn lại sau khi ông A đã rút khỏi Công ty) đã sử dụng
để làm căn cứ kiện đòi ông phải giao đất. Căn cứ khoản 2 điều 58 Bộ luật tố
tụng dân sự quyền của bị đơn khi tham gia tố tụng như sau: "a). Có quyền
cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
5
mình.b) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho toà án". Do đó ông có thể
yêu cầu Ngân hàng cung cấp các tài liệu gồm: hồ sơ vay vốn ban đầu (có sử
dụng biên bản giả) và hồ sơ vay vốn lần thứ hai (có giấy tờ của ông cam kết
bảo lãnh cho công ty vay tiền bằng tài sản của ông là quyền sử dụng
1.992m2 đất). Các chứng cứ này sẽ giúp ông chứng minh quyền sở hữu của
ông đối với diện tích 1.992m2.
(căn cứ theo phần tư vấn pháp luật của báo Kinh tế và đô thị )
- Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba:
Trong trường hợp này, giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện
khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp:
+ Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với
một chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa vụ này, chủ thể đã xác giao dịch
giả tạo.
+ Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa
vụ nhất định đối với Nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả
tạo.
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt
đối (đương nhiên vô hiệu), hay nói cách khác, giao dịch dân sự vô hiệu do
giả tạo là giao dịch dân sự không bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Khoản 2 Điều 136 BLDS 2005).
3.2 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn:
- Khái niệm nhầm lẫn trong giao dịch dân sự:
Theo nghĩa thông thường, nhầm lẫn được hiểu là hành vi thực hiện
hoặc nhận thức không đúng với ý định của người thực hiện hành vi hay nhận
thức. Trong khoa học pháp lý, nhầm lẫn được hiểu là sự thể hiện không
chính xác ý muốn đích thực của một bên hoặc các bên trong giao dịch dân
sự. Hay nói theo cách khác, ở đó không có sự thống nhất giữa ý muốn thật
và ý chí bày tỏ ra bên ngoài của chủ thể. Bên cạnh đó, cũng có cách hiểu cho
rằng nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch mà
tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Dù cách thể
6
hiện ngôn từ có khác nhau, nhưng về cơ bản, nhầm lẫn chính là sự không
phù hợp giữa việc thể hiện ý chí của chủ thể với thực tế của sự việc.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật:
Điều 131 BLDS 2005 quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của giao dich dân sự mà xác lập giao dịch thì bên
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu
bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại
Điều 132 của Bộ luật này”.
Nhầm lẫn là việc mà các bên hình dung sai về nội dung của giao dịch
dân sự mà tham gia xác lập giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên
kia. Sự nhầm lẫn về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện ra rõ
ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bên bị
nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch đó bị tuyên
bố vô hiệu.
Theo Điều 131 BLDS 2005, pháp luật dân sự Việt Nam coi các nhầm
lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự là yếu tố đưa đến sự vô hiệu
của giao dịch dân sự. Như vậy, các nhầm lẫn về nội dung không chủ yếu,
cũng như những nhầm lẫn về chủ thể, nhầm lẫn về luật không được thừa
nhận là yếu tố đưa đến sự vô hiệu của giao dịch.
Nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là giao dịch bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136
BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
do nhầm lẫn là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Vụ án cụ thể: Công ty TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á
Châu (bên mua) đã kiện Công ty TNHH Connell Bros (bên bán) để đòi bồi
thường thiệt hại do việc hàng hóa do Công ty TNHH Connell Bros cung cấp
không đạt yêu cầu về chất lượng. Cụ thể như sau: Ngày 7/7/2003, Công ty
TNHH dịch vụ thương mại sản xuất Việt Á Châu (Công ty Việt Á Châu) ký
hợp đồng số 241/03-VU mua của Công ty TNHH Connell Bros (Công ty
Connell Bros) sản phẩm Myflame 84527E, số lượng 16.080 kg (67 thùng
ống), đơn giá 2,9 USD/kg CIF HCMC, trị giá hợp đồng 46.632 USD, xuất
xứ hàng hóa: Vương quốc Anh. Sau đó, ngày 11/7/2003 các bên lại ký tiếp
7
hợp đồng số 243/03-VU mua 10.080 kg sản phẩm trên, trị giá 29.232 USD
và 5.987,472 kg sản phẩm Performax TF 1133, trị giá 20.357,40 USD. Điều
khoản chất lượng của hai hợp đồng này chỉ ghi “theo Bản đặc điểm kỹ
thuật” (same as Specifications).
Sau khi ký hợp đồng mua hàng với Công ty Connell Bros, bên mua đã
ký hợp đồng số 086/07-2003-VG-GCDI ngày 18/7/2003 gia công cán phủ
chất chống cháy lên vải Poly-oxford cho Xí nghiệp may Bình Thạnh thuộc
Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh –
GILIMEX. Ngày 19/8/2003, bên mua đã giao lô hàng thành phẩm cho Xí
nghiệp may Bình Thạnh. Đến giữa tháng 9/2003, Xí nghiệp Bình Thạnh phát
hiện ra số hàng gia công không đạt yêu cầu do loại chất Myfame 84527E nói
trên: vải được gia công ra không khô, dẻo dính, bong tróc. Vì thế, Xí nghiệp
Bình Thạnh đã từ chối thanh toán tiền gia công cho bên mua.
Vụ kiện được xử sơ thẩm lần đầu tiên vào ngày 28/9/2004 và đã trải
qua bốn phiên xét xử với những kết luận khác nhau qua mỗi lần xét xử. Lần
xét xử sơ thẩm thứ nhất vào ngày 28/9/2004, Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí
Minh đã bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Công ty Việt Á Châu) đòi
bị đơn bồi thường thiệt hại do hàng hóa cung cấp không đúng chất lượng và
chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn (Công ty Connell Bros) về yêu cầu
thanh toán tiền hàng còn thiếu của nguyên đơn đối với bị đơn
1
. Bản án sơ
thẩm đã bị kháng cáo và bị Tòa phúc thẩm hủy án để giao cho Tòa sơ thẩm
giải quyết lại
2
. Vụ kiện sau đó đã được Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh và
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm
và phúc thẩm lại vào các ngày 1/8/2006 và 12/7/2007. Cả hai Tòa này đều
tuyên hai hợp đồng mua bán trên vô hiệu do nhầm lẫn và tranh chấp của các
bên được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế về xử lý
hợp đồng vô hiệu: “Các bên có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã
nhận được từ việc thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp không thể trả được
bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền… Thiệt hại phát sinh, các bên tự gánh
chịu”
3
.
(1) Xem Bản án số 245/KTST ngày 28/9/2004 của Tòa án nhân dân TP.HCM.
(2) Xem Bản án số 37/KTPT ngày 20/10/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại TP.HCM.
8
(3) Xem Bản án số 380/2006/KDTM-ST ngày 01/8/2006 Tòa án nhân dân TP.HCM và Bản
án phúc thẩm số 68/2007/KDTM-PT ngày 12/7/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại TP.HCM.
3.3 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự lừa dối:
- Khái niệm lừa dối trong giao dịch dân sự:
Theo cách nói thông thường thì lừa dối là bằng thủ đoạn nói dối để
gian lận, để làm người khác lầm tưởng mà tin rằng đó là sự thật nên xác lập
giao dịch. Hay nói cách khác, lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai lệch
để người khác tin đó là sự thật mà xác lập giao dịch.
Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối trong giao dịch dân sự là một xảo
thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe
xảo trá dùng để khiến người khác xác lập giao dịch mà lẽ ra bình thường họ
không làm như vậy đều là lừa dối. Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Lừa dối
trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm
cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung
của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Lừa dối có điểm giống nhầm lẫn ở chỗ là cả hai đều liên quan đến
việc trình bày một cách trực tiếp hay gián tiếp về những sự việc không đúng
sự thật hay không tiết lộ một sự thật. Lừa dối khác nhầm lẫn ở chỗ là sự
nhầm lẫn vốn do một bên tự mình không tìm hiểu hoặc hiểu sai sự việc do
lỗi vô ý của bên kia gây ra, còn sự lừa dối lại là sự hiểu sai do một bên hoặc
do người thứ ba cố ý gây ra.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo quy định của pháp luật:
Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự
do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô
hiệu.
Lừa dối ở đây được hiểu là hành vi cố ý của một bên hoặc của người
thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự. Như vậy, hành vi lừa dối có thể là
do một bên chủ thể xác lập giao dịch thực hiện mà cũng có thể là do người
thứ ba gây ra. Tuy nhiên, trong trường hợp người thứ ba gây ra thì cần phải
hiểu là người thứ ba đó phải có mối quan hệ với một bên chủ thể xác lập
giao dịch dân sự và bên chủ thể đó biết rõ hành vi lừa dối bên đối tác hiểu
sai lệch của người thứ ba. Khi đó, giao dịch đã được xác lập mới bị coi là vô
hiệu.
9
Để đảm bảo quyền lợi của bên chủ thể bị lừa dối, pháp luật cũng quy
định chỉ có bên chủ thể bị lừa dối mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là giao dịch
bị hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
(khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu do lừa dối là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được
xác lập.
Vụ án cụ thể: Bà Huỳnh Kim Dung (sinh năm 1958, ở số 100/3C khu
phố Miễu Ba, thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ). Tháng 6/2005, bà Dung
buôn bán nghêu bị thất bại nên lâm vào cảnh khó khăn.
Bà Dung được một người quen giới thiệu gặp ông Nguyễn Trọng Hiếu
(ở khu phố 2, phường Tân Quy, quận 7 tp HCM) để vay tiền. Ông Hiếu yêu
cầu để đảm bảo viêc trả nợ vay, bà Dung phải ký hợp đồng “giả cách” bán
nhà đất cho ông. Ông Hiếu nói : “đây chỉ là hợp đồng mang tính thủ tục, khi
vay tiền ai cũng làm như vậy”. Số tiền vay sẽ được ghi trong hợp đồng là
khoản tiền đặt cọc để mua nhà đất. Ông Hiếu hứa khi bà Dung trả nợ xong,
ông sẽ trả lại giấy chủ quyền nhà đất và sẽ hủy hợp đồng. Vì quá túng quẫn
và do cả tin lời ông Hiếu, bà Dung chấp nhận ký hợp đồng.
Ngày 28/6/2005 ông Hiếu giao cho bà Dung 207,5 triệu đồng nhưng
trong hợp đồng lại ghi là 250 triệu đồng trong đó có 10% (25 triệu đồng) phí
dịch vụ vay tiền và 7% (17,5 triệu đồng) tiền lãi suất tháng đầu tiên.
Gần 4 tháng sau, do lãi suất quá cao, bà Dung không có tiền đóng lãi
nên ông Hiếu đe dọa sẽ lấy đất. Vì sợ chồng biết chuyện, bà Dung đồng ý
vay thêm tiền của ông Hiếu để trả nợ trước đó. Ông Hiếu bảo bà ký vào biên
nhận bổ sung tiền đặt cọc 70 triệu đồng nhưng thực chất ông Hiếu chỉ đưa
cho bà Dung 15,5 triệu đồng. Số tiền còn lại ông Hiếu bảo trừ vào 3 tháng
tiền lãi (số tiền vay 250 triệu đồng trước đó) hết 52,5 triệu đồng và 2 triệu
tiền dịch vụ vay tiền. Sau đó, bà Dung vay ông Hiếu 2 lần nữa để đóng lãi
vay trước đó.
Trong cả 4 lần vay, tổng cộng bà Dung đã nhận của ông Hiếu là 265
triệu đồng nhưng trên giấy tờ là 433 triệu đồng. Đầu năm 2007 ông Hiếu đã
kiện bà Dung ra Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, yêu cầu chuyển lô đất và
nhà có diện tích 10.321m2, trị giá trên 8 tỷ đồng cho ông theo hợp đồng mà
trước đó bà Dung đã ký với ông với giá là 400 triệu đồng.
Giao dịch dân sự này vô hiệu do bị lừa dối. Ở đây hợp đồng "giả
cách" như ông Hiếu nói với bà Dung là nhằm lợi dụng sự kém hiểu biết của
10
bà Dung cũng như sự túng quẫn để bà Dung kí hợp đồng, "là hành vi cố ý
của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó".
3.4 Giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa:
- Khái niệm đe dọa trong giao dịch dân sự:
Đe dọa trong giao dịch là hành vi làm cho một người khiếp sợ, khiến
người này phải xác lập giao dịch ngoài ý muốn của họ. Đe dọa trong giao
dịch có thể thể hiện dưới hai hình thức: đe dọa về thể chất và đe dọa về tinh
thần.
Điều 132 BLDS 2005 quy định: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố
ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện
giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,nhân
phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”.
Để xác định là giao dịch dân sự được xác lập bởi sự đe dọa, sự đe dọa
phải đáp ứng được các yêu cầu:
Thứ nhất, bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích
là buộc chủ thể phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc xác
lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa mong muốn;
Thứ hai, hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia “sợ hãi”, tức là bản
thân bên bị đe dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không thể có một sự lựa chọn
nào khác;
Thứ ba, chủ thể bị đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng
cũng có thể là người khác. BLDS 2005 xác định những người này là cha,
mẹ, vợ, chồng, con;
Thứ tư, hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà
hành vi đó hướng tới, tức là bên bị đe dọa chỉ mới “sợ hãi” về hậu quả của
sự đe dọa có thể xảy ra.
Ví dụ: Ông A do bị ông B (cậy thế, cậy quyền) đe dọa mà buộc phải xác
lập một giao dịch với ông B. Sau khi xác lập giao dịch thì ông B tiếp tục đe
dọa làm cho ông A không dám khởi kiện ra Toàn cho đến khi hết 2 năm thì
ông B không đe dọa nữa lúc này ông A mớ làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố
giao dịch vô hiệu.
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa theo quy định của pháp luật:
11
Theo Điều 132 BLDS 2005 thì khi một bên tham gia giao dịch dân sự
do bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô
hiệu.
Đe dọa trong giao dịch dân sự được hiểu là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản
của mình hoặc của cha, mẹ, vơ, chồng, con của mình.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định trong trường hợp này phải có yêu
cầu của bên bị đe dọa thì Tòa án mới tuyên giao dịch đó vô hiệu.
Giao dịch dân sự vô hiệu do đe dọa là giao dịch bị hạn chế về thời
hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 136
BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự do đe dọa
vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
3.5 Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác
lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình:
+) Không nhận thức, làm chủ được hành vi của chủ thể trong giao dịch dân
sự:
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 17
BLDS 2005). Nó là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập
của cá nhân trong các quan hệ dân sự. Bên cạnh đó pháp luật cũng quy định
cá nhân nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia vào
mọi quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về
những hành vi do họ thực hiện trừ trường hợp bị tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, trên thực tế lại xảy ra những trường hợp mà tại thời điểm
nào đó, người có năng lực hành vi đầy đủ lại không thể nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình. Điều này có nghĩa là bình thường thì họ là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhưng cũng có những thời điểm họ
lại bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ ddđược hành vi của
mình, ví dụ như bị say rượu hay bị tâm thần phân liệt… Và việc chủ thể
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình phải xảy ra vào thời
điểm xác lập giao dịch dân sự thì mới trở thành yếu tố dẫn tới sự vô hiệu của
giao dịch. Vì khi đó giao dịch không đáp ứng được điều kiện tự do ý chí, vi
phạm sự tự nguyện của chủ thể.
12
+) Giao dịch dân sự vô hiệu do vào thời điểm xác lập người xác lập không
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình:
Điều 133 BLDS năm 2005 quy định: “Người có năng lực hành vi dân
sự đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó
vô hiệu”.
Theo quy định của pháp luật thì trường hợp này chỉ áp dụng đối với
những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bởi vì chỉ có những người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mới có điều kiện về ý chí cũng như lý trí
để tham gia vào mọi quan hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên trên thực tế, có thể
do những bệnh lý hoặc do sự tác động từ các yếu tố bên ngoài mà có những
thời điểm họ không có đủ lý trí để nhận thức và điều khiển được hành vi của
chính mình. Lợi dụng điều này, các chủ thể khác có thể tham gia xác lập
giao dịch dân sự với họ với những nội dung có lợi cho mình.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi tham gia vào giao dịch
dân sự, pháp luật dân sự quy định giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời
điểm xác lập, người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình là giao dịch vô hiệu; và người xác lập giao dịch vào thời điểm xác lập
không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình có quyền yêu cầu Tòa
án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu do người
xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của mình là giao dịch bị
hạn chế về thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
(khoản 1 Điều 136 BLDS 2005). Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự do người xác lập không làm chủ và nhận thức được hành vi của
mình vô hiệu là hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
II. Một số vấn đề khác về giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của
chủ thế:
1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ
thể:
Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố vô hiệu có nghĩa là giao dịch ấy
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên và được nhà nước bảo
đảm thực hiện. Theo Điều 137 BLDS 2005 quy định:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng
13
hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi,
lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. nên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường. ”.
1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện của chủ thể không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể
từ thời điểm xác lập:
Giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể chính là vi phạm
một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy
định. Vì vậy, giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là
vô hiệu. Khi đó, pháp luật sẽ không thừa nhận hiệu lực pháp lý của giao dịch
dân sự và nó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo thì giao dịch này đương
nhiên vô hiệu kể từ thời điểm xác lập. Nếu giao dịch chưa được thực hiện thì
các bên không được thực hiện giao dịch nữa; trong trường hợp giao dịch
đang được các bên thực hiện thì các bên phải dừng ngay việc thực hiện,
không được tiếp tục thực hiên giao dịch đó nữa.
Đối với giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay
do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì sẽ
xảy ra hai trường hợp:
- Nếu người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch đó vô hiệu trong thời hạn luật định và Tòa án ra quyết
định tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì lúc này giao dịch đã xác lập mới trở
nên vô hiệu. Khi đó, giao dịch đã xác lập sẽ bị vô hiệu từ thời điểm các bên
xác lập và do đó sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
của các bên kể từ thời điểm xác lập.
- Trong trường hợp người bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, hay do người xác
lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng họ không có
đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu hoặc hết
thời hiệu khởi kiện họ mới có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu thì giao dịch đó không trở nên vô hiệu. Giao dịch đó vẫn được
pháp luật thừa nhận hiệu lực pháp lý và các bên tham gia xác lập giao dịch
dân sự vẫn tiếp tục phải thực hiện tuân theo các điều khoản trong giao dịch.
Tức là, giao dịch mà các bên đã xác lập vẫn làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia xác lập giao dịch.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét