Phân tích nội dung học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ.
So sánh với chính sách tiền tệ, trong học thuyết Keynes
Nội dung chính
I. Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
1. Hoàn cảnh ra đời
2. Tiểu sử của M. Friedman
3. Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện
đại ở Mỹ
4. Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
a. Nội dung
b. Ưu điểm - Hạn chế
II. So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với
chính sách tiền tệ của J.M.Keynes
III. Ứng dụng thực tiễn
IV. Kết luận chung
I. Học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết:
- Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa lại lâm vào cuộc
khủng hoảng lớn do đó bộc lộ sự bất lực của các chính sách kinh tế của Nhà nước tư sản
trên học thuyết của trường phái Keynes.
- Xuất hiện khuynh hướng phê phán học thuyết Keynes và do đó phục hồi tư tưởng tự do
kinh tế nhưng có sửa đổi để thích ứng với tình hình mới.
Nguồn gốc: tư tưởng tự do kinh tế của các nhà cổ điển ( cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX) được phát triển ở các nhà cổ điển mới ( cuối thế kỷ XIX đến thập kỷ 30 của thế kỷ
XX). Gọi là chủ nghĩa tự do cũ. Sau đó tư tưởng chủ nghĩa tư bản có điều tiết ( Keynes)
thống trị, đến những năm 70 của thế kỷ XX thì tư tưởng tự do kinh tế được phục hồi
dẫn đến sự xuất hiện của “ chủ nghĩa tự do mới “ hay “ chủ nghĩa bảo thủ mới “.
- Chủ nghĩa tự do mới được phát triển dưới nhiều tên gọi khác nhau như: chủ nghĩa bảo thủ
mới (ở Mỹ), chủ nghĩa tự do mới ( ở Đức ), chủ nghĩa cá nhân mới ( ở Anh ), chủ nghĩa
kinh tế mới ( ở Aó ), …
- Một trong những trường phái chính của chủ nghĩa này đó là trường phái Trọng tiền hay
Trường phái kinh tế tự do Chicago. Chủ nghĩa trọng tiền được hình thành từ những năm
50 của thế kỉ XX. Đại biểu nổi tiếng nhất và cũng là thủ lĩnh của trường phái này là Milton
Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ. Ngoài ra còn nhiều nhà kinh tế học lớn khác như:
Allan Melizer, Jerry Jordan ( cố vấn kinh tế
của Reagan),…
2. Tiểu sử của M. Friedman
Milton Friedman (31/07/1912 – 16/11/2006)
- Là một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel người
Mỹ.
- Là người ủng hộ chủ nghĩa tư bản tự do, ông đã có những đóng góp quan trọng trong các
lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, kinh tế học vi mô, lịch sử kinh tế và thống kê.
- Năm 1976, Friedman nhận Giải Nobel Kinh tế vì những đóng góp vào lĩnh vực phân tích
tiêu dùng, lịch sử và lý thuyết tiền tệ cũng như vì công lao của ông trong việc chứng minh
tính phức tạp của chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
- Theo tờ The Economist, Friedman là nhà kinh tế có ảnh hưởng lớn nhất vào nửa sau thế
kỷ 20.
- Friedman chính là người đã lập nên trường phái kinh tế học vĩ mô rất có ảnh hưởng –
phái trọng tiền (monetarism). Tư tưởng chính trị của Friedman nhấn mạnh những ưu thế
của thị trường và những bất lợi khi Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế đã định hình quan
điểm của những người theo trường phái bảo thủ và tự do ở Mỹ. Quan điểm của ông về
chính sách tiền tệ, thuế khóa, tư nhân hóa và giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đã có
tác động to lớn tới chính sách của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt thời kỳ chính quyền
Ronald Reagan ở Mỹ và Margaret Thatcher ở Anh.
- Friedman là học trò của nhà kinh tế nổi tiếng Simon Kuznets và là thầy dạy của các nhà
kinh tế nổi tiếng khác như Gary Becker, Tom Campbell, Thomas Sowell.
- Các giải thưởng đạt được: Giải John Bates Clark (1951), Giải Nobel Kinh tế (1976), Huân
chương Tự do Tổng thống 1988, Huy chương quốc gia về khoa học 1988.
3. Các quan điểm kinh tế của trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ
Lập trường cơ bản của phái Trọng tiền là phải thả lỏng nền kinh tế và chống lại sự can
thiệp của chính phủ vào sự vận động của nền kinh tế. Những người theo phái này chủ trương
vai trò của chính phủ là duy trì một tốc độ tăng tiền tệ ổn định hằng năm, và điều đó sẽ đảm
bảo một sự tăng trưởng kinh tế vững chắc với giá cả ổn định.
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ chủ trương tự do hóa nền kinh tế, đồng thời nhấn
mạnh vai trò tự điều tiết của thị trường.
- Về tình trạng nền kinh tế: Cho rằng giá cả và tiền lương trong điều kiện mới là tương đối linh
hoạt, mềm dẻo.
- Thị trường vẫn có khả năng tự động điều tiết. Trường phái này cho rằng cơ chế thị trường
tự nó đã đảm bảo sự cân bằng cung cầu tổng quát ở gần sát với mức sản lượng cân
bằng.
- Do thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên nền kinh tế có khả năng phát huy tiềm năng
của mình. GNP thực tế gần sát GNP tiềm năng. Do đó đường tổng mức cung không phải
là một khoảng nằm ngang mà là một đường dốc đứng gần với GNP (GNP: tổng thu nhập
quốc dân)
- Tổng cầu: Khi đường tổng cung là một đường dốc đứng, tổng cầu thay đổi thì nó không thay
đổi hình dáng kể GNP thực tế mà chỉ làm thay đổi giá cả.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng cầu: Trường phái này cho rằng chính sách tài chính không
làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu mà nhân tố quan trọng quyết định chính là khối lượng
tiền tệ (ký hiệu: M) nói đúng hơn là tổng mức cung về tiền tệ.
Theo quan điểm trọng tiền hiện đại ở Mỹ: Tổng cung tiền tệ là một nhân tố chủ quan. Vì vậy,
nó thường không ổn định và nó thường đặc biệt dễ bị chi phối bởi nhân tố chính trị như là chu
kỳ kinh doanh chính trị (chu kỳ bầu cử tổng thống, nghị sĩ quốc hội ). Trong khi đó tổng mức
cầu về tiền tệ là một đại lượng khách quan, tương đối ổn định vì nó phụ thuộc vào GNP tiềm
năng.
Trường phái trọng tiền hiện đại Mỹ quan tâm đến căn bệnh chủ yếu của nền kinh tế: không
phải là suy thoái và thất nghiệp mà căn bệnh nguy hiểm nhất là lạm phát. Họ đề ra biện pháp
để chống lạm phát như sau: Thực hiện một chính sách tiền tệ, cụ thể, chủ động làm tăng tổng
mức cung tiền tệ từ 3-4%/ năm (phù hợp với tốc độ tăng của tổng mức cầu tiền tệ là xấp xỉ
mức phát triển của GNP tiềm năng. Một điểm cần chú ý ở đây là lạm phát giảm sẽ dẫn đến
tình trạng thất nghiệp tăng.
4. Lý thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ
a. Nội dung:
Lý thuyết về thái độ ứng xử của người tiêu dùng và thu nhập
- Trước hết, về thái độ ứng xử của ngừơi tiêu dùng, theo M.Friedman trong điều kiện ổn
định sẽ có hai nguyên nhân làm cho tiêu dùng cao hơn thu nhập là : Sự ổn định chi và các
khoản thu nhập tăng lên. Sự tiêu dùng thông thường phụ thuộc vào thu nhập, lãi suất và
thu nhập từ tài sản vật chất.
- Thứ hai, về thu nhập, theo M.Friedman , thu nhập (Y) trong một thời kỳ nhất định bao
gồm: thu nhập thường xuyên Yp và thu nhập tức thời (Yt)
Y=Yp+Yt
Yp: của cải mà cá nhân nhận đuợc do nghề nghiệp mang lại
Yt: thu nhập do các nhân tố khác.
Tiêu dùng (C) là tổng số của tiêu dùng thường xuyên (Cp) và tiêu dùng nhất thời(Ct)
C= Cp+ Ct
Giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên có mối quan hệ với nhau. Mối
quan hệ này được thể hiện bằng đẳng thức sau:
Cp = k(i,w,u)Yp
Trong đó:
k: Hệ số chỉ tương quan giữa tiêu dùng thường xuyên và thu nhập thường xuyên.
i: Lãi suất
w: Tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên
u: Sự phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm.
Qua đẳng thức trên, M.Friedman cho rằng tiêu dùng thường xuyên phụ thuộc vào lãi suất,
tương quan giữa tài sản vật chất với thu nhập thường xuyên và sự phân chia thu nhập
cho tiêu dùng và tiết kiệm là chính chứ không phải là thu nhập thường xuyên.
Lý thuyết tiền tệ và thu nhập quốc dân
Đây là lý thuyết nổi tiếng của Friedman và của phái trọng tiền. Nội dung cơ bản của lý
thuyết này có thể khái quát thành những điểm dưới đây:
- Thứ nhất, nhân tố quyết định sự tăng trưởng của sản lượng quốc gia là mức cung tiền tệ.
Theo M.Friedman và những người theo phái trọng tiền hiện đại, các biến số vĩ mô như:
giá cả, sản lượng, công ăn việc làm phụ thuộc vào mức cung tiền tệ chứ không phải vào
chính sách tài chính (thuế và chi tiêu ngân sách) của trường phái Keynes.
Mức cung tiền tệ thường không ổn định và phụ thuộc vào quyết định chủ quan của chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu ngân hàng trung ương phát hành không đủ
tiền thì dễ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, còn nếu phát hành thừa tiền thị lại bị lạm phát.
Mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao, nó được quyết định bởi thu nhập. Mức cầu danh
nghĩa về tiền đuợc xác định bởi công thức:
Md = f(Yn,i)
Trong đó:
- Md: Mức cầu danh nghĩa về tiền tệ
- Yn: Thu nhập danh nghĩa
- i: Lãi suất danh nghĩa
Qua công thức trên, những người trọng tiền hiện đại cho rằng sự thay đổi cầu về tiền tệ
phụ thuộc vào sự thay đổi của thu nhập, còn lãi về tiền là nhân tố ngoại sinh của nền kinh
tế.
Từ đó có thể trình bày công thức cầu về tiền dưới dạng đơn giản sau:
Md=f(Yn)
Qua những phân tích trên, M.Friedman cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933
diễn ra ở Mỹ là do Hệ thống dự trữ liên bang (FED) đã phát hành một số tiền ít hơn mức
cung tiền tệ. Tứ đó, ông đề nghị thực hiện chu kỳ tiền tệ và thu nhập quốc dân nhằm chủ
động điều tiết mức cung tiền tệ trong từng thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ khủng hoàng
thì tăng mức cung tiền tệ để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, còn trong thời kỳ
phồn vinh thì giảm mức cung tiền để kìm hãm bớt mức phồn vinh. Theo ông, để giữ sự ổn
định trong nền kinh tế cần tăng khối lượng tiền hàng năm ổn định mức từ 3-4% .
- Thứ hai, giá cả hàng hóa phụ thuộc vào khối lượng tiền tệ.
Từ công thức M.V = P.Q => P = V/Q.M
Trong đó: M: là mức cung tiền tệ
V: tốc độ lưu thông của tiền tệ
Q: số lượng hàng hóa, dịch vụ trong năm
P: giá cả trung bình của hàng hóa và dịch vụ
Ta có: Nếu V,Q không đổi thì P phụ thuộc vào M. Khối lượng tiền tệ càng nhiều thì giá cả
hàng hóa càng tăng cao. Do đó, các nhà trọng tiền hiện đại quan tâm đến việc ổn định tiền tệ
và chống lạm phát. Theo họ, vấn đề cần quan tâm trong nền kinh tế là lạm phát, là căn bệnh
nan giải của xã hội cần phải giải quyết. M.Friedman đã đưa ra khái niệm thất nghiệp tự nhiên,
từ đó trở thành khái niệm cơ bản trong phân tích thị trường lao động theo lý thuyết tự do. "Ở
bất cứ thời điểm nào cũng luôn luôn có một mức thất nghiệp mang đặc tính là tương hợp với
thế cân đối trong cơ cấu tỷ lệ lương thực tế Tỷ lệ thất nghiệp nếu thấp hơn mức ấy tức là
cầu quá lớn về lao động do đó sẽ gấp sức ép vào sự giảm tiền lương thực tế" (Vai trò của
chính sách tiền tệ, American Economic Review, tháng 3-1968).
- Thứ ba, trường phái trọng tiền hiện đại ủng hộ và bảo vệ quan điểm tự do kinh tế, chế độ
tư hữu và quyền tự do hoạt động của các doang nghiệp, nhà nước không nên can thiệp sâu
vào kinh tế. Vì nên kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phát triển cao, tương đôi ổn định, thường
xuyên ở tình trạng cân bằng động; hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế dựa vào các qui luật
kinh tế khách quan, mà không cần sự can thiệp sâu của nhà nước.
b. Ưu điểm và hạn chế của học thuyết trọng tiền:
Ưu điểm:
- Chính sách tiền tệ là một vũ khí vĩ mô rất mạnh mẽ và sắc bén: sẽ loại trừ được những
biến động cục bộ hay tác động của sức ỳ nhất định trong giá cả và tiền công, làm cho nền
kinh tế nhanh chóng trở lại thế cân bằng (do khối lượng tiền tệ tăng lên với một tỉ lệ không
đổi, từ 3% - 4% một năm).
- Học thuyết này đã đề ra một giải pháp hữu hiệu để tránh lạm phát.
Hạn chế:
- Không đề cao sự can thiệp của Chính phủ để điều tiết nền kinh tế. Theo họ thì cơ chế thị
trường tự do có thể điều tiết, giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản một cách có hiệu quả,
không cần đến sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp của Nhà nước chỉ làm phá vỡ
thế cân bằng thị trường và có hại cho nền kinh tế.
- Chỉ quan tâm đến việc chống lạm phát mà không lưu tâm đến suy thoái và thất nghiệp, là
căn bệnh trầm kha của chủ nghĩa tư bản.
- Vào những năm 1973-1974, chủ nghĩa trọng tiền đuợc vận dụng ở Mỹ và Anh. Ở Mỹ
chính quyền Nixon, nói chung là chính phủ của Đảng Cộng hòa đều coi trọng các ý kiến
của trường phái trọng tiền Chicago, ngay cả FED cũng họach định chính sách tiền tệ từ
năm 1978 đến năm 1982 trên cơ sở quan điểm của trường phái này. Nhưng việc vận
dụng nó mang lại kết quả hạn chế:
+ Sự giảm giá gây ra tình trạng trì trệ và thất nghiệp ở mức cao.
+ Việc giảm chi phí nhà nước và giảm thâm hụt ngân sách dẫn đến giảm cầu tín dụng
nhà nước. Điều đó hạn chế tăng giá, nhưng lại kéo theo giảm kích thích đầu tư làm
cho nền kinh tến xấu đi.
+ Nó làm tăng giảm mâu thuẫn trong xã hội tư bản: thất nghiệp tăng, cắt giảm chi phí
xã hội, mức sống người lao động giảm
II. So sánh học thuyết trọng tiền hiện đại ở Mỹ với chính sách tiền tệ
của J.M. Keynes
Trường phái trọng tiền hiện đại ở Mỹ đối lập và phê phán gay gắt những quan điểm chủ yếu
của Keynes.
Có nhiều điểm khác biệt giữa lý thuyết của Friedman về cầu tiền và lý thuyết của Keynes:
- Đưa nhiều tài sản vào làm đối trọng cho tiền.
Friedman nhận thức rằng không phải chỉ có lãi suất có ý nghĩa quan trọng đối với sự vận
hành của nền kinh tế tổng hợp. Ngược lại, Keynes xếp tất cả các tài sản tài chính không phải
tiền vào một nhóm lớn – gọi là trái phiếu – bởi vì ông cảm thấy lợi tức của chúng nhìn chung
biến đổi cùng nhau. Nếu điều này đúng, lợi tức dự kiến thu được từ trái phiếu sẽ là chỉ báo
tốt về lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản tài chính khác và không cần tách biệt chúng ra
trong hàm cầu tiền.
- Cũng ngược với Keynes, Friedman coi tiền và hàng hóa là hàng thay thế cho nhau.
Nghĩa là, mọi người lựa chọn giữa chúng khi quyết định nắm giữ bao nhiêu tiền. Đây là lí
do giải thích tại sao Friedman đưa cả lợi tức dự kiến thu được từ hàng hóa so với tiền vào
hàm cầu tiền của mình. Giả định tiền và hàng hóa là hàng thay thế chỉ ra rằng những thay đổi
trong khối lượng tiền tệ có thể có ảnh hưởng trực tiếp tới tổng chi tiêu.
- Ngoài ra, Friedman cũng nhấn mạnh hai vấn đề khi trình bày hàm cầu tiền của mình khác
với hàm cầu tiền rút ra từ lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes:
+ Thứ nhất, Friedman không coi lợi tức dự kiến thu được từ tiền là không thay đổi như
Keynes.
Khi lãi suất trong nền kinh tế tăng, ngân hàng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn từ các
khoản cho vay của mình và họ muốn thu hút nhiều tiền gửi hơn để tăng khối lượng các khoản
cho vay giờ đây có thể đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Nếu không có các hạn chế về lãi suất trả
cho tiền gửi, ngân hàng sẽ thu hút tiền gửi bằng cách trả lãi suất cao hơn cho nó. Bởi vì
ngành này có khả năng cạnh tranh, nên lợi ích dự kiến thu được từ tiền được nắm giữ dưới
dạng tiền gửi ngân hàng tăng cùng với lãi suất cao hơn thu được từ trái phiếu và các khoản
cho vay. Ngân hàng cạnh tranh để nhận được tiền gửi cho tới khi không còn lợi nhuận quá
cao và khi làm như vậy, họ thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất thu được từ các khoản cho
vay và lãi suất trả cho tiền gửi. Kết quả ròng của sự cạnh tranh này trong ngân hàng là r
b
-r
m
tương đối không thay đổi khi lãi suất i tăng. Còn nếu có hạn chế về lãi suất mà ngân hàng
được phép trả cho tiền gửi, khi lãi suất tăng thì r
b
-r
m
không tăng. Ông cho rằng mặc dù các
ngân hàng có thể bị hạn chế trong việc thanh toán bằng tiền mặt cho các khoản tiền gửi,
song họ vẫn có thể cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ. Vì thế, mặc dù có các hạn chế về
thanh toán lãi suất bằng tiền mặt thì vẫn có thể thấy sự gia tăng trong lãi suất thị trường làm
tăng lợi tức dự kiến thu được từ tiền, đủ để r
b
-r
m
tương đối không thay đổi.
Không giống như lý thuyết của Keynes, một lý thuyết chỉ ra rằng lãi suất là yếu tố quan
trọng quyết định cầu tiền M = L(i), lý thuyết của Friedman cho rằng những thay đổi trong lãi
suất chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến cầu tiền. Bởi vậy, hàm cầu tiền của Friedman về cơ bản là
hàm cầu tiền mà trong đó thu nhập thường xuyên là yếu tố trước hết quyết định cầu tiền và
phương trình cầu tiền của ông có thể trình bày như sau: MD/P = f(Y
p
). Theo quan điểm của
Friedman, cầu tiền không nhạy cảm với lãi suất– không phải vì ông cho rằng cầu tiền không
nhạy cảm với những thay đổi trong động cơ nắm giữ các tài sản khác với tiền – mà bởi vì
những thay đổi trong lãi suất chỉ có ít ảnh hưởng tới các biểu thức biểu thị động cơ trong hàm
cầu tiền. Các biểu thức biểu thị động cơ tương đối không thay đổi, bởi vì bất kỳ sự gia tăng
nào trong lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản khác mà dẫn tới sự gia tăng trong lãi suất
cũng sẽ được bù lại bằng sự gia tăng trong lợi tức dự kiến thu được từ tiền.
+ Vấn đề thứ hai mà Friedman nhấn mạnh là sự ổn định của hàm cầu tiền.
Khác với Keynes, Friedman cho rằng những biến động ngẫu nhiên trong cầu tiền là nhỏ
và rằng cầu tiền có thể được dự báo chính xác bằng hàm cầu tiền. Khi kết hợp với quan điểm
của ông là cầu tiền không nhạy cảm với những thay đổi trong lãi suất, điều này có nghĩa là
tốc độ lưu thông rất dễ dự báo. Chúng ta có thể thấy điều này khi biểu thị tốc độ lưu thông
hàm ý trong phương trình cầu tiền: V = Y/f(Y
p
). Do mối quan hệ giữa Y và Y
p
thường dễ dự
báo nên hàm cầu tiền ổn định. Điều này hàm ý tốc độ lưu thông cũng có thể dự báo được.
Nếu chúng ta dự báo được tốc độ lưu thông sẽ xuất hiện trong kỳ tiếp theo, thì sự thay đổi
trong khối lượng tiền tệ sẽ tạo ra sự thay đổi dự báo được trong tổng chi tiêu. Mặc dù tốc độ
lưu thông không còn được giả định là hằng số, song cung tiền tiếp tục là yếu tố trước hết
quyết định thu nhập danh nghĩa nhuw trong lý thuyết số lượng tiền tệ. Bởi vậy, lý thuyết của
Friedman về cầu tiền dĩ nhiên phải là sự trình bày lại lý thuyết số lượng do nó dẫn tới kết luận
như nhau về tầm quan trọng của tiền đối với tổng chi tiêu.
Tóm lại, lý thuyết của Friedman về cầu tiền sử dụng phương pháp tiếp cận tương tự như
phương pháp tiếp cận của Keynes, nhưng không đi vào những chi tiết nắm trong động cơ
nắm giữ tiền. Thay vào đó, Friedman sử dụng lý thuyết cầu về tài sản để chỉ ra rằng cầu tiền
là một hàm của thu nhập thường xuyên và lợi tức dự kiến thu được từ các tài sản khác so
với lợi tức dự kiến thu được từ tiền. Có hai khác biệt lớn giữa lý thuyết của Friedman và lý
thuyết của Keynes: Friedman tin rằng những thay đổi trong lãi suất có ảnh hưởng nhỏ tới lợi
tức dự kiến thu được từ tài sản khác so với tiền. Bởi vậy, khác với Keynes, ông coi cầu tiền
không nhạy cảm với lãi suất. Ngoài ra, ông khác với Keynes ở chỗ nhấn mạnh rằng hàm cầu
tiền không trải qua sự dịch chuyển đáng kể và bởi vậy khá ổn định. Hai sự khác biệt này cũng
cho thấy rằng người ta dễ dàng dự báo được tốc độ lưu thông, tương tự như kết luận của lý
thuyết số lượng rằng tiền là yếu tố trước hết quyết định tổng chi tiêu.
III. Ứng dụng thực tiễn
1) Tại Mỹ những năm 80 của thế kỉ XX
- Chính sách dưới thời tổng thống Ronald Reagan.
Tổng thống Reagan đã sử dụng nhiều chính sách kinh tế dựa trên học thuyết kinh tế của
trường phái tự do mới.
Ông đã áp dụng thành công lý thuyết trọng tiền hiện đại để kiềm chế lạm phát. Năm
1980, khi Reagan được bầu lên, tỷ lệ lạm phát ở mức 13,5%/năm. Nó giảm xuống dưới 5%
khi ông từ nhiệm năm 1989.
Dưới sự điều hành của cựu chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang (FED) Paul Volcker, tỷ lệ lãi
suất lên đến 19% năm 1981 – so với mức 1% ngày nay. Nền kinh tế suy thoái trước khi phục
hồi cuối năm 1982.
“Chính sách kiểm soát tiền tệ chặt chẽ, đầu tiên dưới thời Volcker và sau đó dưới thời
(chủ tịch FED hiện giờ) Alan Greenspan sẽ không thể nào thực thi, nếu không có sự ủng hộ
mạnh mẽ của tổng thống”, Niskanen bình luận.
Reagan sẵn sàng sa thải các kiểm soát viên không lưu khi họ đình công, làm thay đổi
vĩnh viễn mối quan hệ giữa giới chủ và công đoàn. Ông chấp nhận tỷ lệ thất nghiệp cao, ủng
hộ thị trường tự do và chống lại sự can thiệp của chính phủ.
Ngoài ra Tổng thống Reagan còn sử dụng lý thuyết trọng cung. ý thuyết kinh tế học chỉ
đạo quan điểm này là lý thuyết trọng cung. Lý thuyết này cho rằng việc cung cấp nhiều loại
hàng hóa và dịch vụ sẽ khiến đầu tư kinh doanh tăng lên và do đó, là con đường ngắn nhất
dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện chủ trương này, chính quyền Reagan cho rằng
việc cắt giảm thuế sẽ làm tăng đầu tư xây dựng cơ bản và lợi nhuận của các doanh nghiệp,
do đó, một mức thuế thấp hơn đánh vào những khoản thu nhập doanh nghiệp lớn này sẽ
giúp cho thu nhập của chính phủ cũng tăng lên.
Chính sách của Tổng thống Reagan đã giúp nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì trệ thập kỷ
1970, khi lạm phát tăng vọt và lãi suất cao ngất ngưởng. Kinh tế Mỹ phát triển mạnh từ cuối
năm 1982 đến tháng 7/1990, tạo ra gần 20 triệu việc làm và giúp thị trường chứng khoán
phát triển mạnh cho đến năm 2000.
2) Tại Việt Nam năm 2008
a) Bối cảnh
Đất nước ta bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008 trong bối
cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp và rất khó lường. Kinh tế Mỹ suy giảm
nghiêm trọng: GDP quý 4 năm 2007 chỉ tăng 0,6%, thấp hơn rất nhiều so với các quý trước
đó. Theo nhiều dự báo, kinh tế Mỹ cả năm 2008 chỉ tăng 1,5%. Thậm chí, có những nhận
định cho rằng, kinh tế Mỹ đã bước vào giai đoạn suy thoái.
Đồng Đô la Mỹ (USD) giảm giá so với nhiều đồng tiền khác, giá cả của hầu hết các mặt
hàng trên thị trường thế giới tăng cao (1), sự suy giảm của kinh tế Mỹ, nền kinh tế chiếm
khoảng 25% tổng GDP toàn cầu và trên 15% tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá thế giới, đã tác
động mạnh và kéo theo sự suy giảm của nhiều nền kinh tế. Giá tăng cao ở hầu hết các nước,
kể cả ở các nước có nền kinh tế mạnh và đã duy trì được mức giá thấp trong nhiều năm (2).
Nhiều quốc gia đã phải điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng từ 1 đến 2% (3). Nếu kinh tế Mỹ
rơi vào chu kỳ suy thoái, tình hình có thể còn phức tạp hơn.
Ưu tiên kiềm chế lạm phát
Đến nay, kinh tế nước ta đã hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền
kinh tế là rất lớn với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tương đương khoảng 160% GDP, trong
đó, nhập khẩu gần 90% GDP, thì những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như vừa qua
của kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến
mặt bằng giá trong nước với mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và so với nhiều nước
khác.
Trong nước, hai năm 2006 - 2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh
tế khoảng 33.600 tỷ đồng) chưa được khắc phục thì đầu năm nay, đợt rét đậm, rét hại lịch sử
kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất cho nhân dân và tác
động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp (4).
Bối cảnh quốc tế, trong nước nêu trên đã làm cho những yếu kém của nền kinh tế và
trong cơ cấu kinh tế của nước ta bộc lộ sâu sắc hơn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
tạo ra những thách thức gay gắt cho việc quản lý và điều hành phát triển kinh tế.
Trước tình hình này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp nước
ta đã nỗ lực phấn đấu, phát huy mọi tiềm năng lợi thế, đối phó và vượt qua những khó khăn
thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo ra
những cơ sở để tăng trưởng cao trong trung và dài hạn, đã duy trì được tốc độ tăng trưởng
GDP trong quý I đạt 7,4%. Đây là những cố gắng lớn của cả nước.
Tuy nhiên, do những tác động của kinh tế thế giới và những bất cập, yếu kém trong
quản lý, điều hành kết hợp với các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh tế đã làm cho tình hình
kinh tế quý I năm 2008 có những diễn biến bất lợi như: Lạm phát cao, giá tiêu dùng tháng 3
đã tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng mạnh, chênh lệch xuất - nhập
khẩu lên tới hơn 7 tỷ USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu.
Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng
lớp nhân dân, nhất là những người làm công ăn lương và người nghèo, đe doạ đến ổn định
vĩ mô, tác động không thuận đến môi trường đầu tư, kinh doanh.
Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 3 năm 2008, qua thảo luận nghiêm túc và cân
nhắc thận trọng trên các mặt, Chính phủ đã thống nhất xác định nhiệm vụ trọng tâm trong
tình hình hiện nay là: phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội và tăng trưởng bền vững. Trong đó, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Bởi
lẽ, nếu không kiềm chế được lạm phát, chẳng những sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất
và đời sống của nhân dân, đến ổn định kinh tế vĩ mô mà còn ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế trong trung và dài hạn, việc làm cũng giảm sút, môi trường đầu tư kinh doanh cũng sẽ
trở nên xấu hơn.
Nói kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, có nghĩa là không chạy theo chỉ tiêu
tăng trưởng đã đặt ra từ cuối năm 2007 mà phải tập trung sức để kiềm chế bằng được lạm
phát, phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng giá giảm dần. Theo tinh thần đó, Chính phủ dự kiến sẽ
trình Quốc hội xem xét giảm chỉ tiêu tăng trưởng và điều chỉnh lại chỉ tiêu lạm phát cho phù
họp với tình hình thực tế. Sự điều chỉnh này là cần thiết nhằm hướng các giải pháp vào mục
tiêu ưu tiên hàng đầu, bảo đảm tiền đề cho tăng trưởng cao và bền vững những năm tiếp
theo. Chính phủ đã và đang tập trung chỉ đạo điều hành để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
và mục tiêu ưu tiên hàng đầu này.
b) Bảy giải pháp chủ yếu
Để đạt được những nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, Chính phủ đã thống nhất chỉ đạo
thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng
lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng
liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân quan trọng
gây lạm phát. Nhận thức được tình hình đó, Chính phủ chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng
phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. Ngân hàng Nhà nước,
thông qua việc chủ động, linh hoạt sử dụng hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo
nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này.
Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần bảo đảm tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tạo điều kiện cho
sản xuất hàng hoá và xuất khẩu phát triển.
Hai là, cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng
ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm
tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp nhà nước hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư xã hội. Cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ
làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Chính
phủ sẽ quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và chi phí hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các
bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết
để có sự điều chỉnh thích hợp. Điều này sẽ được thực hiện một cách kiên quyết ngay trong
việc phân bổ lại và cân đối nguồn vốn.
Cũng trên tinh thần đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh,
thành phố với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết cắt bỏ các công trình đầu tư kém hiệu quả. Đồng
thời, tạo điều kiện và tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình
đầu tư sản xuất hàng hoá thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản
xuất.
Ba là, tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã là thành
viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng
mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo
hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần
kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng
phụ.
Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho các bộ trưởng, chủ tịch
UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về
vốn, về thị trường, về thủ tục hành chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Bốn là, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập
siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống
nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành
hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón giao nhiệm vụ cho các
đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá
cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bỏ bao cấp qua giá,
nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dầu giá thế giới tăng cao, Chính phủ đã quyết định: từ
nay cho đến hết tháng 6, chưa tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá xi măng,
phân bón, nước sạch, thuốc bệnh, vé máy bay, tàu hoả; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt,
giảm các loại phí thu từ nông dân
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh lương thực và kiềm
chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ quy định lượng xuất khẩu gạo năm
nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quý 3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã
giao Bộ Tài chính đề xuất phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả
năng áp dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng Đô la Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường xuất
khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền Việt Nam và đồng
Đô la Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ
trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị
trường, giúp cho việc kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo
đảm việc mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu tăng trong năm
2007 và tăng cao hơn trong quý 1 năm nay, đã đe doạ đến cân đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp
dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu,
kiểm soát nhập khẩu.
Để làm việc này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân
hàng Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm hàng xuất
khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường hợp cụ thể; tăng cường
hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành
chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam đi đôi với việc áp dụng các hàng rào
kỹ thuật và các biện pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập
siêu, kể cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
Năm là, triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí
trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt
giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ
giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà triệt để tiết kiệm tiêu dùng,
nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm
nhập siêu, vừa góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.
Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị
trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như:
xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình
trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên kiểm tra giá bán tại
các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các
tổng công ty nhà nước phải gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ các chủ trương
và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình
giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng
bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính
sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những người lao động thuộc
khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ
ngày 1 tháng 1 năm 2008. Chính phủ cũng quy định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo
hướng tăng lên đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt
Nam, lao động làm việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia
đình, cá nhân và các tổ chức khác của Việt Nam có thuê mướn lao động.
Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh nghiệp tự dạy
nghề), mức lương tối thiểu quy định cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng.
Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được
tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức
chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-TTg về một số chính
sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và
ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng tiền tương đương 5 lít dầu hoả/năm (dầu thắp sáng)
cho các hộ là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi
chưa có điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ 80.000
đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá thẻ bảo hiểm y tế đối
với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua
mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản, tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản;
hỗ trợ ngư dân để thay máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh
phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai thác hải
sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên các tàu cá, tàu
dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng
dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ đã quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp tục cho sinh viên,
học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó khăn được vay ưu đãi để học tập.
Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói
(5). Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải
pháp hỗ trợ khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý là
phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà nước đến
đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.
Cần đồng tâm, hiệp lực
Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm
phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ
của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc
của các cấp chính quyền.
Hơn nữa, thị trường thế giới đang biến động, phải theo dõi sát tình hình, cập nhật đầy
đủ thông tin để có các giải pháp phản ứng kịp thời, chính xác, nhằm một mặt, hạn chế các tác
động xấu do những khó khăn khách quan mới nẩy sinh; mặt khác, tận dụng được thời cơ mới
xuất hiện để phát huy tiềm năng tăng trưởng của đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển cao
hơn khi điều kiện thuận lợi.
Chính phủ nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trước toàn Đảng, toàn dân về kiềm
chế lạm phát. Nhưng, công cuộc này chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự ủng hộ và đồng
tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp, của các cơ quan thông
tin đại chúng và của toàn thể nhân dân cả nước.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, khó khăn thách thức trong quá trình phát triển đi lên có
mặt cũng rất gay gắt, nhưng thời cơ thuận lợi và tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế nước
ta còn rất lớn và rất cơ bản. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và với sự quyết tâm, chung sức chung lòng của
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chúng ta sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục đưa nền kinh tế nước ta phát triển bền vững.
c) Kết quả của các giải pháp nhằm chống lạm phát:
Trong khoảng 8 tháng đầu năm, biểu đồ CPI tạo thành những đường dốc đứng, trồi lên,
sụt xuống kế tiếp nhau. Biểu đồ CPI tạo thành những đợt sóng, vượt lên một tháng lại giảm
tốc hai tháng mà đỉnh của những “con sóng” CPI rơi vào các tháng 2, 5 và 8.
Ở 4 tháng còn lại, đường biểu diễn giá trị CPI tạo thành dốc, trượt xuống mạnh mẽ,
vượt qua mức âm cho đến tháng tận cùng của năm, khép lại một năm 2008 đầy biến động
bằng việc xóa sạch xu hướng tăng của lạm phát, nhưng làm gia tăng nỗi lo suy giảm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét