Đề án kinh tế chính trị
nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu đợc lợi
nhuận thông qua sự chênh lệch về điều kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành
với nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác
nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu t có lợi hơn. Các doanh
nghiệp tự do di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh tranh
này dẫn đến hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá
chuyển thành giá cả sản xuất.
Việc hình thành nên giá thị trờng của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền kinh tế thị trờng. Với giá trị thị trờng của
hàng hoá cho biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ
đó sẽ có những thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ
suất lợi nhuận bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà t bản sẽ là nh nhau cho
dù đầu t vào những ngành khác nhau với lợng TB nh nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu
quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá
cạnh tranh nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lợng sản phẩm trong quá
trình cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao
động cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các
nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội
cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn
lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không
cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trờng, kích thích
thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn
đầu t vào sản xuất trên thị trờng, khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng
hoá thì làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu đợc của
các doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu nh giá cả giảm xuống dới mức hoặc bằng
chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản.
Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng
5
Đề án kinh tế chính trị
hoá thì doanh nghiệp đó mới thu đợc. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn
tại đợc thì phải giảm chi phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động
bằng cách tích cực ứng dụng đa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá
trình sản xuất.
Ngợc lại khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị
trờng điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của
hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này
kích thích các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng
dụng khoa học - công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có đợc l-
ợng hàng hoá tung ra thị trờng. Điều này làm tăng thêm vốn đầu t cho sản xuất,
kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là
động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh
lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nớc.
Thứ t: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng không chỉ có cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những
ngời lao động với nhau, để có đợc một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều
đó khiến cho mọi ngời trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề
của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con ngời ta hoàn thiện hơn, cạnh
tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con ngời mới trong xã hội
mới thông minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ thắng
và ngời thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ yếu
thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa
tiêu cực. Bởi vì có nh vậy thì các nguồn lực của xã hội mới đợc chuyển sang cho
những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả sẽ dẫn
đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản xuất của xã
hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh nghiệp yếu
kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là sự huỷ diệt
sáng tạo.
6
Đề án kinh tế chính trị
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền trong
kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến
việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhng cạnh tranh trên thị
trờng đã không cho phép họ làm nh vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn muốn
xoá bỏ cạnh tranh và độc quyền đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ. Độc
quyền trong kinh doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những điều
kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trờng sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc quyền thờng dẫn đến xu hớng cửa quyền, bạo
lực và trong một số trờng hợp nó cản trở sự phát triển của khoa học kĩ thuật, làm
chậm thâm chí lãng phí các nguồn lực xã hội. Bởi lẽ với thế độc quyền các
doanh nghiệp sản xuất không cần quan tâm đến việc cải tiến máy móc kĩ thuật,
không cần tìm cách nâng cao năng suất lao động mà vẫn thu đợc lợi nhuận cao
nhờ vào độc quyền mua và độc quyền bán. Độc quyền là sự thống trị tuyệt đối
trong lu thông và sản xuất nên dễ nảy sinh giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn
cao, Do vậy, sự phục vụ của ngời tiêu dùng nói riêng và cho xã hội nói chung
là kém hiệu quả hơn so với cạnh tranh tự do. Trong nhiều trờng hợp độc quyền
áp đặt sự tiêu dùng làm cho xã hội. Chính do cung cách ấy mà độc quyền thờng
làm cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm hàng hoá, sản xuất không đáp
ứng đợc nhu cầu ảnh hởng đến nhịp độ tăng trởng kinh tế.
Độc quyền hình thành biểu hiện sự thất bại của thị trờng. Để có sự cạnh
tranh hoàn hảo, nhiều quốc gia đã coi chống độc quyền và tạo nên cạnh tranh
hoàn hảo là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà nớc. Để tạo nên cạnh tranh
lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh thì cần phải có những điều
kiện nhất định.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh
doanh
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế
pháp lý không chỉ do nhà nớc ban hành mà nó còn đợc ban hành bởi các tổ chức
7
Đề án kinh tế chính trị
quốc tế hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu tố pháp
lý thể chế nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trờng kinh doanh - là
đất sống của hoạt động sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí - thể chế đều
tác động vào một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đ-
ợc dùng để điều chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các
chủ thể kinh tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực nào đều phải dựa vào các thể chế - pháp lí đã đợc ban hành đối với lĩnh vực
nào đó để tham gia hoạt động kinh tế. Nh vậy sẽ hình thành nên một môi trờng
kinh doanh ổn định khoa học. Mặc dù chỉ có định hớng trong một lĩnh vực nhất
định, song trong một nền kinh tế thống nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ
cho guồng máy kinh tế thì các yếu tố thể chế - pháp lí này đều phải đảm bảo
các điều kiện sau:
Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Nh vậy mọi lĩnh vực
của hoạt động sản xuất kinh doanh đều đợc điều chỉnh bởi các thể chế - pháp lí,
đièu này sẽ tạo nên tính hài hoà trong nền kinh tế. Nếu nh không đảm bảo đợc
sự đồng bộ thì trong nền kinh tế sẽ có những lĩnh vực không bị tác động của các
thể chế pháp lí, việc hoạt động trong các lĩnh vực này sẽ dễ dàng, tự do hơn so
với các linh vực có các yếu tố pháp lí - thể chế tác động, bởi vì nó không chịu
ảnh hởng, không chịu bất kì tác động nào từ Nhà nớc. Các nhà sản xuất kinh
doanh sẽ từ đó sản xuất tiêu thụ sản phẩm theo ý muốn của mình. Điều này sẽ
tạo nên sự lộn xộn trong nền kinh tế bởi vì mục đích sản xuất của mỗi ngời là
khác nhau, do đó sẽ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất với nhau, tạo điều
kiện cho độc quyền hình thành để tránh sự cạnh tranh.
Thứ hai: Các thể chế - pháp lí do Nhà nớc ban hành phải phù hợp với tình
hình thực tế. Để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngoài ra các qui định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu theo
nhiều nghĩa hớng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm trọng.
Việc ban hành các thể chế - pháp lí này sát với thực tế, không rõ ràng thì không
8
Đề án kinh tế chính trị
những thực hiện đợc mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động sai lệch,
làm đảo lộn trật tự.
Thứ 3: Hiệu lực pháp luật của các qui định pháp lí - thể chế phải thống
nhất trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không đợc có sự phân biệt đối xử
khi thực hiện các qui định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các qui định.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng nh nhà nớc khi ra các qui định
pháp lí - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này đảm
bảo tính sát thực của các qui định. Nhà nớc dựa vào các qui định để điều hành
quản lý nền kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản
lý, chỉ đạo giám sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm
bảo cho việc các qui định pháp lí - thể chế đợc thực hiện. Do vai trò hết sức
quan trọng đó mà việc quản lý kinh tế của nhà nớc đòi hỏi bộ máy quản lý nhà
nớc phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền
kinh tế thị trờng với môi trờng cạnh tranh gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ
chức độc quyền hình thành là điều dễ dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo
nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản lý kinh tế non kém thì nhà nớc sẽ không
thể quản lí đợc nền kinh tế, các bản qui định không thể đa vào áp dụng trong
thực tế, hoặc nếu có đa vào áp dụng đợc thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc
thực hiện. Điều này sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình
hình kinh doanh bất ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền hình
thành. Thực tế ở Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ bản việc đầu t dàn trải
không có trọng điểm gây lãng phí vốn đầu t. Trong các dự án, công trình xây
dựng việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng, ăn dơ với nhau
giữa các chủ đầu t và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ máy quản
lý còn non kém. Cha đa ra đợc những qui định pháp lí - thể chế để điều chỉnh
các hoạt động kinh tế. Việc các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc đầu cơ,
thông đồng với nhau tạo ra sự khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao. Điều
này cũng tơng tự đối với thị trờng bất động sản.
9
Đề án kinh tế chính trị
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để
tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền.
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các
chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tợng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế.
Nhà nớc ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định
của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định đợc thực hiện tốt thì ngoài vai trò
quản lí tốt của Nhà nớc còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và
nhân dân. ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia
hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền
trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lí là có hạn cho nên trong quá
trình quản lý không thể khong mắc những sai lầm, thiếu sót. Khi đó sẽ là điều
kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, độc quyền lợi dụng
sai sót của cơ quan quản lý để hoạt động. Trong những tình huống nh vậy để tạo
nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền rất cần có tinh thần, ý thức của
các chủ thể kinh doanh cũng nh của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm, ý thức tốt
của các chủ thể kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ
quan quản lý.
II. Thực trạng cạnh tranh và chống độc quyền ở Việt Nam
1. Sự chuyển biến về nhân thức đối với cạnh tranh
Sau chiến tranh đất nớc thống nhất, cả nớc hăng hái bắt tay vào công cuộc
xây dựng, kiến tạo đất nớc đa đất nớc tiến thẳng lên CNXH. Trong khi đó trong
tay chỉ có mô hình kinh tế sau chiến tranh để lại - nền kinh tế tập trung bao cấp
của cải xã hội bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Việc áp dụng mô hình kinh tế
này trong chiến tranh đã đem lại hiệu quả cao, và đợc coi nh mô hình u việt.
Nhng trong thời bình, nó đã không còn phù hợp và Việt Nam đã phải trả giá cho
việc áp dụng nền kinh tế này đó là: nền kinh tế suy thoái trầm trọng chi vợt thu,
lạm phát cao, đồng tiền mất giá, phơng tiện kĩ thuật ngày càng lạc hậu, chậm đ-
ợc đổi mới, năng lực sản xuất trong nớc kém. Trong nền kinh tế cũ - nền kinh tế
10
Đề án kinh tế chính trị
tập trung bao cấp thì mọi hoạt động kinh tế của xã hội đều do Nhà nớc đảm
nhiệm, nhà nớc bao tiêu hết quá trình sản xuất của các doanh nghiệp kể cả việc
tiêu thụ sản phẩm do đó mà nó gây ra sức ì đối với các doanh nghiệp đợc nhà n-
ớc bao cấp. Các doanh nghiệp cứ ung dung thực hiện theo kế hoạch của nhà nớc
để sản xuất, không cần quan tâm đến việc phải cạnh tranh với ai. Các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh dờng nh chỉ biết đến khái niệm cạnh tranh trên lí
thuyết chứ cha đợc thấy thực tế cạnh tranh là nh thế nào. Điều đó gây ra lãng
phí nguồn lực xã hội, cạnh tranh không đợc coi trọng.
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nớc buộc chúng ta phải chuyển đổi nền
kinh tế và nền kinh tế thị trờng đã đợc áp dụng nhng nó chịu sự quản lý của Nhà
nớc. Đó là nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nền kinh tế thị trờng với qui
luật cạnh tranh đã không còn chỗ cho sự ỉ lại, trông chờ vào trợ cấp, nó buộc
các chủ thể kinh tế phải luôn luôn hoạt động để tìm lấy vị trí tồn tại trong nền
kinh tế. Do tính chất khắc nghiệt của cạnh tranh nên việc yêu cầu nhận thức về
cạnh tranh một cách đúng đắn là điều cần thiết. Cùng với quá trình đổi mới,
cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần đợc chấp nhận ở nớc ta nh một động lực
đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, nhng chịu sự điều tiết của nhà nớc. Đảng và
Nhà nớc ta đã ban hành một số văn bản pháp lí điều chỉnh hành vi có liên quan
đến cạnh tranh trên thị trờng nh:
- Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam năm 1987 và sửa đổi vào các năm
1990, 2000.
Cạnh tranh trên thị trờng có 4 cấp độ: cạnh tranh về hình thức sản phẩm,
cạnh tranh về loại sản phẩm, những loại sản phẩm có thể thay thế và cạnh tranh
về ngân sách.
Cạnh tranh về hình thức sản phẩm là cấp độ thấp nhất của cạnh tranh.
Hình thức này chủ yếu tập trung vào sản phẩm hiện tại của các doanh nghiệp
mà không tập trung vào cái có thể xảy ra trong tơng lai. Các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau về nhãn hiệu nằm trong cùng một chủng loại sản phẩm và sẽ
thoả mãn nhu cầu của cùng một đoạn thị trờng. Loại hình cạnh tranh này dựa
trên thị hiếu của khách hàng. Ví dụ nh các doanh nghiệp sản xuất dầu ăn nh: T-
11
Đề án kinh tế chính trị
ờng An, Bình An, Neptune họ đều sản xuất và tiêu thụ dầu ăn trên thị tr ờng
Việt Nam do đó để cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này là điều tất nhiên. Họ
đều cố gắng đa ra những loại sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp đáp ứng đợc thị hiếu
của khách hàng để chiếm lĩnh thị trờng.
Cấp độ thứ 2 của cạnh tranh là cạnh tranh về loại sản phẩm. Loại hình
này dựa trên những sản phẩm và dịch vụ với những đặc điểm tơng tự đợc xác
định nh là đặc tính chứ không phải giá trị cao hay thấp. ví dụ nh hãng sản xuất
điện thoại di động liên tục cải tiến mẫu mã cũng nh đặc tính, chức năng, công
dụng để có thể đa ra những sản phẩm có tính năng sử dụng cao, kết hợp nhiều
chức năng: xem ti vi, nghe nhạc, đọc sách Loại hình cạnh tranh này rộng hơn
so với cạnh tranh về hình thức sản phẩm. Nhng cạnh tranh về loại sản phẩm hay
hình thức sản phẩm vẫn thuộc quan điểm ngắn hạn.
Cấp độ thứ ba của cạnh tranh là tập trung vào những sản phẩm có thể thay
thế, loại hình này tập trung dài hạn hơn. VD: cửa hàng bán đồ ăn sẵn cạnh tranh
với các cửa hàng bán đồ tơi sống.
Cấp độ cạnh tranh chung hơn theo Kotler là cạnh tranh về ngân sách. Đây
là quan điểm rộng nhất về cạnh tranh vì nó cho rằng tất cả các sản phẩm hay
dịch vụ cạnh tranh với nhau đều nhằm vào túi tiền của ngời tiêu dùng. Loại
cạnh tranh này bao gồm một lợng lớn các nhà cạnh tranh nên gây khó khăn cho
việc thực hiện về mặt chiến lợc của các doanh nghiệp. Khách hàng với một số
tiền nhất định họ có thể tự do lựa chọn sản phẩm tiêu dùng họ có thể mua sắm
những hàng hoá lâu bền hoặc có thể mua sắm chi tiêu cho kì nghỉ hoặc họ có
thể dùng cho việc chăm sóc sức khoẻ v.v
Trong kinh doanh tuỳ thuộc vào từng trờng hợp cụ thể mà các doanh
nghiệp lựa chọn cấp độ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế và chính
sách cạnh tranh của công ty.
- Xoá bỏ cơ chế hai giá và các hình thức bao cấp. Ban hành pháp lệnh hợp
đồng kinh tế năm 1988.
- Ban hành luật công ty và luật doanh nghiệp t nhân; pháp lệnh về chất l-
ợng hàng hoá năm 1990.
12
Đề án kinh tế chính trị
- Năm 1992 ra đời hiến pháp mới cho phép cá nhận đợc thực hiện quyền
sở hữu tài sản do thu nhập tạo ra.
- Ban hành luật phá sản 1993
- Ban hành bộ luật dân sự 1995
- Năm 1996 qui định chế độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong bộ
luật dân cự.
- Ban hành luật thơng mại 1997
- Ban hành thuế giá trị gia tăng và huỷ bỏ việc cấp giấy phép xuất nhập
khẩu năm 1998.
- Ban hành luật doanh nghiệp năm 1999.
Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, Nhà nớc đã
từng bớc nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên, cho đến nay các mục tiêu phát triển ổn
định và việc làm đợc đặt lên trên mục tiêu hiệu quả.
Nhà nớc tôn trọng các qui luật khách quan của nền kinh tế thị trờng,
trong đó có qui luật cạnh tranh và hạn chế bớt tiêu cực của thị trờng. Trong kinh
tế thị trờng cạnh tranh tự do bao gồm tự do hành nghề theo pháp luật, tự do
quyết định của ngời kinh doanh và tự do lựa chọn của ngời tiêu dùng. Cạnh
tranh trên thị trờng tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau. Cạnh tranh về thị tr-
ờng phân phối, cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công, cạnh tranh
về nguyên vật liệu, cạnh tranh về công cụ marketing Cạnh tranh xảy ra giữa
các doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc giữa các ngành với nhau. Mỗi cấp
độ khác nhau thì có hình thức cạnh tranh khác nhau. Các doanh nghiệp khi
tham gia kinh doanh cần phải có nhận thức đúng về cạnh tranhvà các cấp độ của
cạnh tranh để từ đó đề ra các chính sách cho sự phát triển của mình. Dới đây là
một số cấp độ cạnh tranh của thị trờng.
2. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nớc ta
cha nhất quán, cha nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nớc trong nền kinh tế,
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nớc nên cha có quan điểm dứt khoát về ủng hộ
cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà nớc cha có
13
Đề án kinh tế chính trị
những qui định cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó t tởng cha coi trọng khu
vực kinh tế t nhân và việc thành lập hàng loạt các tổng công ty 90, 91 cũng ảnh
hởng không tốt đến môi trờng cạnh tranh. Do những tồn tại đấy mà thực trạng
cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Thể hiện:
a) Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhfa n-
ớc với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh
nghiệp trong nớc với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài. Các doanh
nghiệp nhà nớc đợc hởng nhiều u đãi từ phía nhà nớc nh: các u đãi về vốn đầu t,
thuế, vị trí địa lý, thị trờng tiêu thụ, Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập
trung trong tay một lợng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nớc, than, dầu
lửa, bu chính viễn thông, giao thông vận tải , các doanh nghiệp t nhân không
đợc coi trọng. Các doanh nghiệp nớc ngoài hoạt động theo một qui chế riêng,
không đợc u đãi từ nhà nớc. Điều này gây thiệt hại lớn về kinh tế, bởi về một số
doanh nghiệp nhà nớc làm ăn hiệu quả, chây ì, trông chờ vào nhà nớc gây ra
lãng phí nguồn lực xã hội, trong khi các công ty t nhân hoạt động năng nổ và
hiệu quả hơn. Ngoài ra do những qui định không hợp lí trong hoạt động của các
doanh nghiệp nớc ngoài gây nên sự e ngại về đầu t vào nớc ta của các công ty n-
ớc ngoài sự e ngại về đầu t vào nớc ta của các công ty nớc ngoài.
b) Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận
của mình mà không vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên
những hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể:
- Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp
khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt động
kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động, tẩy chay không cung cấp sản
phẩm hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp hội hoặc
cho phá sản.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét