Hình 2: Sự phân bố của Đà điểu trong địa phận nước Úc
Trang 5
Hình 3: Sự phân bố của Đà điểu ở vùng nhiệt đới ẩm
Trang 6
Lịch sử nghiên cứu đối tượng
Trên thế giới việc nghiên cứu mang tính điều tra phân loại, miêu tả ngoại hình,
tập tính và một số đặc điểm sinh học khác, như đời sống tình dục, nguồn thức ăn…
Ngoài ra, còn có các thí nghiệm nhiều trong điều kiện nhân tạo, nuôi dưỡng.
Riêng ở Việt Nam hiện nay ở nước ta Casuarius casuarius được nuôi chủ yếu ở
một số vùng có điều kiện nghiên cứu khoa học. Casuarius casuarius ít sống tập trung,
nên việc nuôi nhốt và nghiên cứu tren đối tượng này có phần phức tạp hơn, và chỉ đang
dừng ở mức độ.
+ Nghiên cứu một số đặc tính sinh vật học của Casuarius casuarius.
+ Khả năng sinh sản của Casuarius casuarius.
+ Khả năng sinh trưởng và phát triển.
+ Khả năng sử dụng một số loại thức ăn củ quả và côn trùng.
2. Phân loại chi tiết
o Domain - lĩnh giới: Eukaryota - Whittaker & Margulis,1978 - eukaryotes
o Kingdom - giới: Animalia - Linnaeus, 1758 - animals
o Subkingdom - phân giới: Bilateria - (Hatschek, 1888) Cavalier-Smith, 1983
o Branch - chi: Deuterostomia - Grobben, 1908
o Infrakingdom - cận giới: Chordonia - (Haeckel, 1874) Cavalier-Smith, 1998
o Phylum - ngành: Chordata - Bateson, 1885 - Chordates
o Subphylum phân ngành: Vertebrata - Cuvier, 1812 - Vertebrates
o Infraphylum cận ngành: Gnathostomata - Auct. - Jawed Vertebrates
o Superclass - tổng lớp: Tetrapoda - Goodrich, 1930
Trang 7
o Class - lớp: Aves - Linnaeus, 1758
- Birds
o Subclass - phân lớp: Neornithes - Gadow, 1893
o Infraclass - cận lớp: Eoaves
o Order - bộ: Struthioniformes - Latham, 1790 - Ostriches
o Suborder - phân bộ: Struthioni
o Infraorder - cận bộ: Struthionides
o Family - họ: Struthionidae - Vigors, 1825
o Tribe - tông: Casuariini
o Genus - giống: Casuarius - Brisson 1760
o Scientific name - tên khoa học: - Casuarius casuarius (Linnaeus) 1758
Như vậy, năm 1758, Linnaeus đã đặt danh pháp khoa học của Đà điểu châu Úc là
Casuarius casuarius (1)
Carl Linnaeus (23/5/1707 - 10/01/1778)
Trang 8
3. Đặc điểm sinh học – sinh thái học
Là loai động vật rắn chắc, chân có 3 ngón to khỏe, rắn chắc, được trang bị với 3
nanh vuốt nhọn chết người, dài tới 12 xentimet. (2)
Hình 5: Mô tả chân Đà điểu
Casuarius casuarius
Trang 9
Đầu cổ màu xanh, 2 yếm thịt màu đỏ treo ở dưới cổ họng của nó. Đó là nguyên
nhân chúng còn được gọi với cái tên
là “Two-wattled Cassowary” và
“Double-wattled Cassowary”.
Bộ lông rất đẹp, con cái có phần trội hôn với bộ lông dài, đẹp và sáng sủa với
những ánh màu hơn. Những con non thì có bộ lồng màu nâu và đơn giản hơn. Loài này
là loài to nhất trong họ Đà điểu và là loài chim lớn thứ nặng thứ 2 trong lớp chim. Ước
lượng lớn nhất về trọng lượng có thể lên tới 85 kylogam và chiều cao 190 xentimet.
Thông thường các loài có chiều cao dao động từ 127 tới 170 centimet, trọng lượng con
cái khoảng 58 kylogam, con đực khoảng từ 29 - 34 kylogam. Nó là loài chim châu Á lớn
nhất sau sự tuyệt chủng của loài Đà điểu A - rập và là loài chim châu Úc lớn nhất mặc
loài Đà điểu sa mạc Úc có thể cao hơn.
Cấu tạo hình thái trên thích nghi với môi trường sống của loài này và với cuộc
sống di chuyển và chạy nhanh của Đà điểu Úc casuarius casuarius. Đặc biệt là đôi chân
to, chắc khỏe, móng vuốt nhọn, bàn chân chai sạn thích nghi với lối sống trong khu vực
rừng với nhiều mối đe dọa từ các động vật hoang dã ăn thịt khác luôn rình rập xung
quanh. Đà điểu là loài sống riêng lẻ, ít khi thấy chúng tập trung thành bầy đàn, việc trang
bị cho mình cơ thể to lớn, đoi chân rắn chắc và nanh vuốt sắc nhọn là những vũ khí
phòng thân rất đặc hiệu. Hình dạng và cấu tạo của mỏ tạo thuận lợi cho lối sống ăn trái
Hình 4: Mô tả 2 yếm thịt và lông của Đà điểu
Casuarius casuarius
Trang 10
cây rừng, vỏ cây, hạt trái cây, cây bụi và một số thực vật thuộc họ quế, cây mía và cây
cọ Loài này không làm tổ mà đẻ ngay trên mặt đất. (4)
4. Ý nghĩa của đối tượng đối với hệ sinh thái, ý nghĩa tiến hoá và hiện trạng của
chúng hiện nay ở môi trường tự nhiên.
Chim có nguồn gốc từ bò sát. Hiện nay đa số tác giả đều cho rằng tổ tiên của chim
thuộc nhóm bò sát Pseudosuchia cùng gốc với thằn lằn khổng lồ. Người ta đã tìm được
nhiều di tích chim cổ nhất là Archaeo pteryx mang nhiều đặc điểm của chim như lông
vũ, chi trước biến thành cánh nhưng vẫn có một số đặc điểm của Bò sát như có răng,
chưa có mỏ, đốt sống lõm hai mặt Sang đầu kỷ Đệ Tam, có nhiều giống chim hoàn
toàn như chim ngày nay, hàm không có răng, chỉ có mỏ sừng. Chim hiện đại tiến hoá
theo ba hướng chính, trong đó có hướng tiến hóa trở thành Chim chạy mà đại diện là
các loài Đà điểu - cổ nhất, tách khỏi các chim khác từ kỷ Bạch phấn trong số đó có Đà
điểu casuarius casuarius. Trong quá trình tiến hóa, cũng như các loài động vạt khác, sự
tiến hóa của casuarius casuarius gắn liền với các thay đổi của môi trường và sự tác động
qua lại giữa các sinh vật và giữa sinh vật với môi trường. Đà điểu casuarius casuarius
là một thành phần trong chuỗi thức ăn, vì thế ảnh hưởng đến sự cân bằng của các sinh
vật trong chuỗi thức ăn, kể cả sinh vật sản xuất (thực vật) và sinh vật tiêu thụ cấp 1 (côn
trùng) và các sinh vật tiêu thụ cấp cao hơn (sinh vật ăn thịt). Theo chọn lọc tự nhiên,
casuarius casuarius duy trì ở một mức độ cân bằng thích hợp, từ đó cũng duy trì mức độ
cân bằng của các thành phần khác trong hệ sinh thái (3)
Hiện trạng: Theo sách đỏ của IUCN, Đà điểu Úc casuarius casuarius đang ở mức
VU - Vulnerable - sắp nguy cấp. Hiện trạng là bị săn bắt và mua bán nhiều trong thiên
nhiên. Do loài này mang nhiều giá trị kinh tế hấp dẫn. Ví dụ một bộ gia đà điểu giá
khoảng 400USD, xếp trên cả da cá sấu. Thịt đà điểu giá 30USD/kg. Lông của đà điểu rất
có giá trị, nó dùng làm chổi quét bụi sử dụng trong các ngành công nghiệp chính xác vì
có khả năng cách điện. Mỡ đà điểu được sử dụng trong ngành mỹ phẩm. Ngoài ra vỏ
Trang 11
trứng, lông được sử dụng làm các sản phẩm mỹ nghệ Do đó, cần đẩy mạnh hơn nữa
công tác bảo tồn các động vật nói chung và loài casuarius casuarius để có thể ngăn
ngừa nguy cơ tác động tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của loài động vật này. (5)
5. Tài liệu tham khảo
(1) http://zipcodezoo.com/Animals/C/Casuarius_casuarius/
(2) http://en.wikipedia.org/wiki/Cassowary
(3) http://www.answers.com/topic/casuariidae
(4) http://en.wikipedia.org/wiki/Southern_Cassowary
(5) http://sic-corp.com.vn/index.php?
option=com_content&task=view&id=19&Itemid=46&lang=vi
(6) http://tintuc.xalo.vn/001417295197/nuoi_da_dieu_khong_kho.html
(7) TS. Trần Tố - ThS. Đỗ Quyết Thắng, Giáo trình Động vật, Nhà xuất bản Hà Nội,
2006.
B. BÀI BÁO CÁO PHẦN THÚ
Đối tượng: Nhím đuôi ngắn Hystrix Brachyurus (Tên thường gọi: Malayan porcupine)
(1)
Tóm tắt: Nhím Mã lai - Hystrix Brachyurus là một trong những loài thú điển hình
thuộc bộ gặm nhấm Rodentia. Với ngoại hình bé nhỏ những rắn chắc, được che chở bởi
một bộ lông cứng - gai đặc trưng của loài Nhím, những đặc điểm hình thái về cơ thể,
lông - gai, răng là các đặc điểm thích nghi tương ứng với lối sống hoạt động về đêm,
thức ăn là hạt, thực vật mà Hystrix brachyura có được trong quá trình tiến hóa, đặc biệt
là bộ lông gai cứng nhọn làm một vũ khí tự vệ trước kẻ thù. Với giá trị kinh tế cao, sự
Trang 12
tồn tại và phát triển của các loài động vật hiện đang bị đe họa, trong đó có Hystrix
Brachyurus ở mức độ sắp nguy cấp - VU theo sách đỏ IUCN. Các nghiên cứu hiện tại
về loài nhím Hystrix Brachyurus mới chỉ dừng lại ở các mục đích: nghiên cứu một số
đặc tính sinh vật học, khả năng sinh sản , khả năng sử dụng một số loại thức ăn củ và
quả của đàn nhím. Cần đi sâu nghiên cứu để làm rõ mối quan hệ tác động giữa nhím
Hystrix Brachyurus với các sinh vật khác, với môi trường và với chủ thể con người, để
có biện pháp bảo tồn tính đa dạng của loài nhím Hystrix Brachyurus đang ở hiện trạng
sắp nguy cấp.
1. Giới thiệu
Nhím Mã lai -
Hystrix Brachyurus là
một loài động vật thuộc
Bộ gặm nhấm, họ
Hystricidae. Hiện nay còn
3 phân loài còn tồn tại ở
miền nam và đông nam
châu Á. Loài Hystrix
Brachyurus là động vật
ưa hoạt động về đêm,
Hình 1: Hình thái Nhím đuôi ngắn Hystrix Brachyurus
Trang 13
ngày ẩn trong các hang hốc ở bãi cỏ hoặc rừng rậm ở dốc núi, đến đêm bò ra kiếm ăn; có
lúc đi thành đàn nhỏ vài con để hoạt động. Mỗi năm nhím đẻ một lần, mỗi lần đẻ 2 - 4
con, gai trên thân của nhím mới đẻ rất mềm, song rất nhanh cứng lại. Nhím ăn thức ăn
có tính thực vật, các loại nông sản như quả dưa, rau xanh, ngô, lạc, củ cải và khoai (2) và
thậm chí cả xác chết thối rửa của côn trùng (3)
Phân Bố Địa Lý
Nhím Mã Lai có phân bố trong khoảng từ Nê -pan băng qua vùng Đông - Nam
Ấn Độ ( bao gồm các vùng: Arunachal Pradesh, Sikkim, West Bengal, Manipur,
Mizoram, Meghalaya and Nagaland), tới cùng trung tâm và miền Nam Trung Quốc
(Thượng Hải, Quảng Đông, Hồng Koong ), cho đến các nước Myanmar, Thailand,
Lao, Cambodia and Vietnam, xuyên qua bán đảoMalaysia, tới Singapore, Sumatra
(Indonesia) and kể cả khắp vùquaần đảo (Indonesia, Malaysia, Sarawak và Brunei).
Hystrix Brachyurus được tìm thấy ở khu vực Biển có độ sâu 1300 mét và ở tất cả các
rừng có độ cao 1500 mét.
Lịch sử nghiên cứu nhím Hystrix Brachyurus
Hiện nay, các nghiên cứu về loại Hystrix Brachyurus ở Trên thế giới cụ thể là
các nước vùng Bắc Mỹ và Nam phi mới dừng lại ở việc nghiên cứu mang tính điều tra
phân loại, miêu tả ngoại hình, tập tính và một số đặc điểm sinh học khác, như đời sống
tình dục, nguồn thức ăn… Chưa có các thí nghiệm nhiều trong điều kiện nhân tạo, nuôi
dưỡng. Riêng ở Việt Nam hiện nay ở nước ta Hystrix Brachyurus được nuôi chủ yếu ở
một số vùng có điều kiện nghiên cứu khoa học và các nông hộ nuôi nhím để tăng cường
sức sản xuất tính hướng thịt của chúng Mực độ nghiên cứu ở Việt Nam dừng ở:
+ Nghiên cứu một số đặc tính sinh vật học của đàn nhím.
+ Khả năng sinh sản của đàn nhím.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét