Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trong tư vấn cổ phần hóa tại Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt

phương pháp đó khi áp dụng còn hạn chế nào không? Đây là câu hỏi mà bất
kể những nhà hoạt động thị trường và hoạch định chính sách cũng đều quan
tâm.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt, được sự
giúp đỡ tận tình của các cán bộ cùng với sự tìm hiểu nghiên cứu của bản thân,
em chọn đề tài : Hoàn thiện các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
trong tư vấn cổ phần hoá tại Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt.
Với mục đích phân tích các thực trạng và đưa ra một số giải pháp để hoàn
thiện hơn các phương pháp định giá doanh nghiệp.
Về phương pháp nghiên cứu, em sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp
dựa trên những số liệu, tài liệu cụ thể được cung cấp trên công ty kết hợp với
những hiểu biết mà em có được khi học ở trường, kinh nghiệm thực tế khi
thực tập tại Bảo Việt.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp gồm có:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xác định giá trị doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng sử dụng các phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp cổ phần hoá tại Công ty cổ phần chứng khoán Bảo
Việt
Chương 3: Hoàn thiện phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại
công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
1.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
1.1.1 Lý luận về doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu hoặc với mục
đích công ích.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp thì “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh” tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần
được coi là một loại hàng hóa. Việc xác định gía trị doanh nghiệp là một nhu
cầu tất yếu và đã thu hút được sự quan tâm rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá
trị doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền
lợi của các bên tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp.
Mặc dù được coi là một hàng hóa nhưng không phải ai có tiền cũng có thể
mua được doanh nghiệp, bởi lẽ doanh nghiệp không phải là một hàng hóa
thông thường mà là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cấu thành và có
mối liên hệ hữu cơ lẫn nhau. Vì vậy, việc xác định giá trị và giá trị trao đổi
của nó phức tạp hơn nhiều so với các hàng hóa khác. Khi nhìn nhận giá trị
doanh nghiệp dưới góc độ này, cần chú ý đến một số vấn đề sau đây:
a. Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoạt động chứ không phải là
các tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau.
Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn kết với nhau để tạo ra
giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp nhưng khi giải thể, phá sản
nó chỉ đơn giản là một sự hỗn hợp các loại tài sản đơn lẻ, rời rạc mà
người ta có thể thanh lý, nhượng bán như một hàng hóa thông thường
nhưng với một mức giá rất rẻ so với giá trị thực của nó. Do vậy, giá trị
doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp
còn đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
b. Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đơn chiếc.
Mỗi doanh nghiệp đều có đặc điểm riêng về cơ sở vật chất kỹ thuật, về vị
trí địa lý và vị thế kinh doanh, vì vậy giá trị doanh nghiệp là giá trị cá
biệt, đơn chiếc, không giống nhau và có các mức giá rất khác nhau.
c. Doanh nghiệp được coi là một tế bào của nền kinh tế.
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn đặt trong mối quan hệ chung với các
phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định
bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan
hệ với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, người cung cấp, người cho
vay, luật pháp, lạm phát, tỷ giá. Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất
là sự thích ứng của nó với môi trường hoạt động của nó. Do đó khi đánh
giá giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần bao gồm nội dung đánh giá
về những tài sản trong doanh nghiệp , mà điều quan trọng hơn là phải
đánh giá nó về mặt tổ chức và sự thích ứng của nó đối với môi trường
kinh doanh.
d. Việc thành lập hay mua lại doanh nghiệp nhằm mục đích cơ bản là tìm
kiếm thu nhập phát sinh từ quyền sở hữu doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư thành lập ra hay mua lại doanh nghiệp không phải với
mục đích nắm quyền sở hữu các tài sản hiện có tại doanh nghiệp hay
nắm quyền sử dụng một bộ máy kinh doanh của doanh nghiệp mà nhằm
phát sinh từ các quyền sở hữu đó. Điều họ quan tâm là mức sinh lời của
doanh nghiệp, là các khoản lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai. Chính vì
vậy, giá trị của một doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào các khoản thu
nhập kỳ vọng và độ lớn của giá trị doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào độ
lớn các khoản thu nhập kỳ vọng đó.
Từ các đặc điểm trên, có thể thấy rằng: doanh nghiệp là một hàng hóa đặc
biệt, vì vậy: giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khoản
thu nhập mà doanh nghiệp đó mang lại cho các nhà đầu tư trong suốt quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để xác định được trị giá của doanh nghiệp , về mặt nguyên lý, chỉ có thể có
hai cách tiếp cận đó là:
a. Đánh giá trực tiếp
Trực tiếp đánh gía của các tài sản của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản
hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị của các yếu tố về tổ chức,
danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
b. Đánh giá gián tiếp
Đánh giá gián tiếp thông qua việc lượng hóa các khoản thu nhập kỳ vọng
mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư tron g suốt thời gian
hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Nếu xác định giá trị doanh nghiệp thông qua phương pháp tiếp cận trực tiếp
thì thông thường giá trị doanh nghiệp gồm 3 bộ phận chính là: gía trị tài sản
hữu hình, giá trị tài sản vô hình, giá trị quyền sử dụng đất và lượng hóa giá trị
của các nhân tố phi kinh tế như: địa điểm hoạt động, bộ máy tổ chức, danh
tiếng, uy tín của doanh nghiệp. Nhưng thông thường theo cách thức này
chúng ta mới xem xét giá trị doanh nghiệp ở thể tĩnh mà không thấy được sự
vận động của nó cũng như chưa thể hiện rõ được mục đích của các nhà đầu
tư. Mặt khác, góc nhìn tĩnh tại này không thể thực hiện được sự tác động của
các yếu tố trong môi trường kinh doanh đến doanh nghiệp, không xem xét tới
gía trị thơì gian của dòng tiền. Đó chính là những hạn chế vốn có của cách
nhìn tĩnh tại.
Nếu xác định giá trị doanh nghiệp thông qua phương pháp tiếp cận gián tiếp
thì giá trị doanh nghiệp bao gồm các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh
nghiệp có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai. Phương pháp này
xem xét giá trị doanh nghiệp trong trạng thái động, vì vậy nó khắc phục được
cơ bản các tồn tại của cách tiếp cận thứ nhất và đồng thời nó lột tả được mục
đích của các nhà đầu tư là các khoản lợi nhuận kỳ vọng chứ không phảI là sở
hữu các tài sản hiện có của công ty. Nhưng đến lượt mình nó lại chứa đựng
khá nhiều phức tạp bởi lẽ: việc ước tính các khoản thu nhập trong tương lai
không hề đơn giản chút nào và lại gây khó khăn khi không xác định một cách
thuyết phục về thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp. Hơn nữa việc
việc lựa chọn tỷ suất chiết khấu các khoản thu nhập lại không thể tính toán và
lường trước được sự biến động của các chỉ số lạm phát, hay các tỷ lệ chiết
khấu của nền kinh tế quốc dân.
Theo cách tiếp cận gián tiếp, xác định giá trị doanh nghiệp là việc lượng hóa
các khoản thu nhập mà doanh nghiệp đó tạo ra và mang lại cho các nhà đầu tư
trong tương lai. Với khái niệm như vậy, quá trình xác định giá trị doanh
nghiệp chỉ có thể được coi là trọn vẹn khi nó đảm bảo đầy đủ được các cơ sở
sau:
- Giá trị doanh nghiệp là một phạm trù trừu tượng, nó tồn tại cùng với sự
tồn tại của doanh nghiệp ngay cả khi không có việc mua bán và chuyển
nhượng doanh nghiệp. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là quá
trình lượng hóa giá trị vốn có của nó theo những cách thức nhất định
chứ không thể làm tăng hay giảm giá trị đích thực của nó.
- Giá trị doanh nghiệp là một khái niệm cơ bản hoàn toàn khác với giá
bán của doanh nghiệp trên thị trường. Bởi lẽ, giá trị doanh nghiệp đo
bằng độ lớn các khỏan thu nhập trong tương lai mà doanh nghiệp có thể
đem lại cho các nhà đầu tư trong khi giá bán thực tế của doanh nghiệp
lại chỉ là một mức giá được hình thành trên thị trường dưới tác động
của cung cầu. Do vậy, thực chất giá bán của doanh nghiệp chỉ là một
trường cá biệt của giá trị doanh nghiệp khi coi khoản tiền thu được do
bán doanh nghiệp cũng là một dạng thu nhập mà doanh nghiệp có thể
mang lại cho các nhà đầu tư.
- Các khoản thu nhập trong tương lai chỉ có thể lượng hóa được một cách
đáng tin cậy khi có sự ghi nhận về giá trị thời gian của dòng tiền, nghĩa
là mỗi đồng ở những thời điểm khác nhau sẽ đại diện cho một lượng
giá trị khác nhau.
- Để có được các khoản thu nhập trong tương lai bắt buộc doanh nghiệp
phảI hoạt động. Do vậy, các tính toán, xác định được đưa ra trên cơ sở
thừa nhận tính liên tục hoạt động của doanh nghiệp. Khi đó giá trị
doanh nghiệp là giá trị kinh tế bao gồm cả giá trị hoạt động của doanh
nghiệp đó chứ không hẳn là giá trị thanh lý, nhượng bán như trong đIều
kiện doanh nghiệp không còn hoạt động.
Với hai cách tiếp cận giá trị doanh nghiệp như vậy, trên thế giới hiện nay có
nhiều phương pháp xác định gía trị doanh nghiệp như: phương pháp giá trị
hiện tại thuần, phương pháp hiện tại hóa lợi nhuận, phương pháp định lượng
Goodwill ( lợi thế thương mại); phương pháp chỉ số PER ( Price earning
ratio); phương pháp sử dụng dữ liệu của thị trường chứng khoán; phương
pháp chiết khấu dòng tiền sau thuế và một số phương pháp khác nữa. Tuy
nhiên, kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có những chênh lệch lớn
khi sử dụng các phương pháp khác nhau và thậm chí ngay cả khi áp dụng
cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ thuộc nhiều vào độ chính xác của
các tham số tính toán. Do vậy, mỗi phương pháp đưa ra đều có những thích
ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp và tầm nhìn của các nhà
đầu tư. Không thể có một phương pháp chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp,
nên việc lựa chọn một phương pháp nào đó để áp dụng thống nhất cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
ở Việt Nam sẽ không tránh khỏi phát sinh những vấn đề tồn tại.
1.1.2 Những khái niệm liên quan đến định giá doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp chính là xác định giá trị thực cổ phiếu doanh
nghiệp. Cổ phiếu được phát hành bởi các công ty cổ phần, đó là giấy chứng
nhận sở hữu cổ phần vốn góp của các cổ đông thuộc doanh nghiệp. Cổ phiếu
và doanh nghiệp luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cổ phiếu là đại diện
cho hàng hóa doanh nghiệp và được bán ra trên thị trường. Doanh nghiệp đó
được đánh giá là đắt hay rẻ, có giá trị là bao nhiêu được thể hiện thông qua
giá cổ phiếu. Những công ty càng được đánh giá chất lượng cao thì giá cổ
phiếu của công ty đó trên thị trường càng cao và ngược lại. Một thực tế gần
như đã thành chân lý là giá cổ phiếu trên thị trường luôn biến động. Một sự
giải thích cho việc biến động này đó là do sự kết hợp việc thay đổi giá trị thực
của cổ phiếu hay còn gọi là giá trị thực tế của doanh nghiệp với sự biến động
của các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp thuộc về thị trường.
Những yếu tố thuộc về bản thân doanh nghiệp có tác động đến giá trị nội tại
của cổ phiếu như doanh thu hoạt động, khả năng quản lý, tiêu thụ, khả năng
cạnh tranh, giá trị tài sản, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển… luôn
là nhân tố đánh giá giá trị thực của doanh nghiệp.
Ngược lại những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như sự thay đổi môi trường
kinh tế vĩ mô, khuynh hướng biến động giá của thị trường chứng khoán, các
hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, và các biện pháp kỹ thuật của nhà
điều hành thị trường( Sở giao dịch chứng khoán, nhà tạo lập thị trường…), ý
kiến các nhà phân tích, tâm lý của nhà đầu tư…cũng làm cho giá cổ phiếu
trên thay đổi.
Tuy nhiên giá cổ phiếu trên thị trường luôn có khuynh hướng xoay quanh và
hướng về giá trị thực của cổ phiếu. Nếu cổ phiếu được định giá cao hơn so
với giá trị thực của nó thì nhà đầu tư sẽ muốn bán ra cổ phiếu đó ra. Nếu có
nhiều người cùng nghĩ và làm như vậy thì họ sẽ làm cho giá cổ phiếu giảm
xuống cho đến khi giá cả cổ phiếu đã bằng với giá trị nội tại. Ngược lại khi
giá cổ phiếu được định thấp hơn so với giá trị nội tại. Một sự mua vào của số
đông các nhà đầu tư sẽ làm giá cổ phiếu quay về với giá trị thực.
Như vậy giá trị thực của cổ phiếu luôn là trục gốc để cho giá cả cổ phiếu trên
thị trường xoay quanh. Việc xác định giá trị doanh nghiệp chính là để xác
định giá trị thực của cổ phiếu. Một sự thay đổi trong lợi nhuận doanh nghiệp
sẽ làm giá trị cổ phiếu thay đổi theo, kéo theo nó là giá cả cổ phiếu sẽ kịp thời
biến động theo giá trị.
Trên thực tế giá trị được xác định bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, có
những giá trị được hình thành từ sổ sách kế toán, có giá trị được hình thành từ
luồng thu nhập như nêu trên đây hoặc giá trị được hình thành từ quy luật
cung-cầu của thị trường hay từ hệ số toàn ngành suy ra giá trị doanh nghiệp
Trong từng trường hợp, giá trị được phân tích đánh giá căn cứ vào một số
điều kiện cụ thể và không nhất thiết chỉ căn cứ vào các chiến lược và hiệu quả
kinh doanh của công ty.
Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là rất đa dạng và phức tạp đòi hỏi áp
dụng nhiều phương pháp, kỹ thuật. Trước khi đi vào nghiên cứu các phương
pháp cụ thể và vai trò của nó. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm kinh
tế cơ bản nhất sau đây:
a. Giá trị kinh tế
Khái niệm giá trị kinh tế liên quan đến công dụng chủ yếu của một tài sản
trong việc tạo ra luồng thu nhập sau thuế cho người nắm giữ tài sản đó.
Những luồng thu nhập này có được từ thu nhập hay các khoản thanh toán theo
hợp đồng, hay thanh lý một phần hoặc toàn bộ vào một thời điểm trong tương
lai. Giá trị kinh tế chính là một khái niệm lựa chọn luồng thu nhập. Giá trị của
một hàng hoá được định nghĩa là số tiền mà người mua sẵn sàng trả theo giá
trị hiện tại của nó để có được luồng thu nhập dự tính trong tương lai. Do vậy,
giá trị kinh tế là một khái niệm hướng về tương lai. Nó được xác định thông
qua việc đánh giá luồng thu nhập tiềm năng trong tương lai, kể cả số tiền thu
được từ lần thanh lý hàng hoá cuối cùng. ở đây, các chi phí phát sinh do quyết
định trước đây là chi phí chìm và do vậy không liên quan đến việc ước tính
luồng thu nhập trong tương lai nếu xét từ góc độ kinh tế.
b. Giá trị thị trường
Giá trị thị trường còn được gọi là giá trị thị trường cân bằng, đây là giá trị của
một tài sản hay tập hợp tài sản khi giao dịch trên thị trường có tổ chức hoặc
giữa các bên cá nhân trong một giao dịch tự nguyện. Thị trường có tổ chức sẽ
giúp người mua và người bán định ra giá trị thị trường phù hợp cho tất cả các
loại tài sản hữu hình và vô hình. Giá trị thị trường tất nhiên cũng được hình
thành thông qua các giao dịch giữa các bên cá nhân khi không có thị trường
có tổ chức.
Một lần nữa, giá trị thị trường cũng không phải là giá trị tuyệt đối mà là một
thoả thuận nhất thời giữa hai hay nhiều bên. Theo một nghĩa nào đó thì các
bên giao dịch sẽ điều chỉnh các đánh giá cá nhân tương ứng đối với giá trị
kinh tế của tài sản đủ để đi đến sự nhất trí. Do vậy, giá trị thị trường của
doanh nghiệp vào một thời điểm nhất định có thể phụ thuộc vào sự ưa thích
và thậm chí là quan điểm của các cá nhân liên quan, xu hướng tâm lý phổ
biến trên sở giao dịch có tổ chức, độ gay cấn của cuộc chiến giành quyền thâu
tóm, các biến đổi về kinh tế, phát triển công nghiệp, điều kiện kinh tế chính
trị Hơn nữa, khối lượng tài sản và chứng khoán giao dịch hiện tại sẽ ảnh
hưởng tới giá trị do người mua và người bán định ra.
Giá trị thị trường mặc dù có khả năng biến động nhưng nói chung vẫn được
coi là một tiêu chuẩn hợp lý để đánh giá giá trị hiện tại của từng tài sản có và
tài sản nợ ghi trong bảng cân đối kế toán.
c. Giá trị sổ sách
Giá trị sổ sách của một tài sản có hay tài sản nợ là giá trị ghi trong bảng cân
đối kế toán theo nguyên tắc kế toán được chấp nhận ở mỗi nước. Giá trị sổ
sách chủ yếu phục vụ cho mục đích kế toán chứ không phải là giá trị kinh tế
hiện hành. Giá trị sổ sách là một giá trị có tính lịch sử mà vào một thời điểm
nhất định nào đó nó có thể được đánh giá lại để thể hiện giá trị thị trường.
Tuy nhiên, vì giá trị thị trường luôn thay đổi theo thời gian và những biến
động của điều kiện kinh tế, do vậy, giá trị sổ sách và giá trị thị trường sẽ hầu
như không đồng nhất. Thực tế này rất đúng đối với doanh nghiệp phổ thông
được giao dịch theo giá trị thị trường và giá trị này thường khác xa so với giá
trị ghi sổ. Sở dĩ có sự khác biệt trên là vì giá trị sổ sách được xác định từ bảng
cân đối kế toán.
Từ thực tế trên cho thấy giá trị sổ sách trong nhiều trường hợp chỉ nên dùng
để tham khảo và không phải là cơ sở lý thuyết đầu tư, bởi vì khi bạn đầu tư
vào cổ phiếu của một công ty nào đó là sự đầu tư vào khả năng sinh lãi tương
lai, sự phát triển… để mong sự gia tăng giá trị cổ phiếu, không phải đầu tư
vào tài sản công ty, mặt khác, giá trị sổ sách công ty có khả năng thay đổi bởi
những thủ thuật kế toán, vì thế dẫn đến sự đánh giá khách quan bị sai lệch.
d. Rủi ro
Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được định nghĩa là khả năng xảy ra nhiều kết
quả ngoài dự kiến, hay nói cách khác, mức sinh lời thực tế nhận được trong
tương lai có thể khác với dự kiến ban đầu. Độ chắc chắn của lợi suất đầu tư
càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.
Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát
được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng
khoán được gọi là rủi ro hệ thống. Ngược lại, những rủi ro do các yếu tố nội
tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành hay tới
một công ty, một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ thống.
e. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cổ phần của doanh nghiệp (ROE)
Tỷ suất này biểu thị số lợi nhuận thu được trên vốn của doanh nghiệp hay vốn
cổ phần của cổ đông công ty. Tỷ suất này được tính bằng cách lấy thu nhập
ròng của công ty chia cho số vốn cổ đông.
Tỷ suất này của một công ty nào đó càng cao thì chứng tỏ công ty này sử
dụng đồng vốn một cách hiệu quả và khả năng thu hồi vốn của các cổ đông
càng cao, và tất nhiên, giá cả cổ phiếu của công ty này giao dịch trên thị
trường càng cao.
ROE của doanh nghiệp gồm 3 yếu tố:
ROE = (1) * (2) * (3)
(1) Biên độ lợi nhuận ròng (hay lợi nhuận biên)
(2) tỷ lệ luân chuyển tổng tài sản
(3) Mức đòn bẩy tài chính (tổng tài sản/ vốn cổ phần)
Vì vậy, doanh nghiệp có thể tăng hệ số ROE bằng cách tăng biên độ lợi
nhuận, tăng hiệu qủa hoạt động (tăng vòng quay tồng tài sản), hoặc tăng hệ số
đòn bẩy tài chính và rủi ro tài chính. Như vậy, để ước tính hệ số ROE của một
doanh nghiệp, cần phải xem xét tính toán được từng yếu tố trên.
g. Thu nhập trên vốn cổ phần (EPS- earning per share)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét