Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Nghiên cứu biến động GDP của thị xã Tam Kỳ qua ba năm 2000 - 2002

Ngược lại, một tổ chức hay cá nhân được coi là không thường trú trên lãnh thổ
kinh tế của một quốc gia nếu tổ chức, cá nhân đó đến quốc gia sở tại làm việc,
học tập, nghiên cứu, tham quan dưới thời gian một năm.
1.1.1.4 Phân ngành Kinh Tế Quốc Dân
Nền kinh tế quốc dân : là toàn bộ các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế có
chức năng hoạt động khác nhau, tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với nhau
được hình thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Phân ngành kinh tế quốc dân là sự phân chia nền kinh tế quốc dân thành các
tổ khác nhau (gọi là các ngành kinh tế quốc dân) dựa trên cơ sở vị trí, chức năng
hoạt động của các đơn vị kinh tế hay chủ thể kinh tế trong hệ thống phân công
lao động xã hội.
Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế quốc dân được phân
chia thành 17 ngành (hoạt động) cấp I thuộc 3 nhóm (khu vực) lớn khác nhau
theo quy trình và hình thức hoạt động tự nhiên. Cụ thể :
- Nhóm I được gọi là nhóm ngành khai thác bao gồm các ngành khai thác
thuỷ sản từ tự nhiên, như nông nghiệp và lâm nghiệp, thuỷ sản, khai thác mỏ.
- Nhóm II được gọi là nhòm ngành chế biến, bao gồm các ngành chế biến
sản phẩmkhai thác từ tự nhiên như công nghiệp chế biến, sản xuất và phân phối
điện,khí đốt và nước, xây dựng.
- Nhóm III được gọi là nhóm ngành dịch vụ, bao gồm các ngành sản xuất ra
sản phẩm dịch vụ (dịch vụ sản xuất và dịch vụ không sản xuất) như thương
nghiệp, vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc, giáo dục và đào tạo
Ở Việt Nam dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh
tế (ISIC) của hệ thông tài khoản quốc gia (SNA), ngày 27/10/93 Chính phủ đã ra
Nghị định số 75CP ban hành hệ thống ngành kinh té quốc dân gồm 20 ngành cấp
I như sau :
1. Ngành nông nghiệp và lâm nghiệp,
2. Ngành thuỷ sản,
3. Nhành công nghiệp khai thác mỏ,
4. Ngành công nghiệp chế biến,
5. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước,
6. Ngành xây dựng,
7. Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ,mô tô,xe máy, đồ dùng
cá nhân và gia đình,
8. Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc,
9. Ngành khách sạn, nhà hàng,
10. Ngành tài chính, tín dụng,
11. Ngành hoạt động khoa học và công nghệ,
12. Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn,
13. Ngành quản lý nhà nướcvà an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội bắt
buộc,
14. Ngành giáo dục và đào tạo,
15. Ngành y tế và hoạt động cứu trợ xã hội,
16. Hoạt động văn hoá và thể thao,
17. Hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội,
18. Ngành hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng,
19. Ngành hoạt động làm thuê công việc gia đình trong các hộ tư nhân,
20. Ngành hoạt động của các tổ chức và đoàn thể quốc tế.
1.1.1.5 Vấn đề giá cả :
Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong hệ thống tài khoản quốc gia được tính
theo 2 loại giá : giá thực tế và giá so sánh năm gốc.
♦ Giá thực tế :
Giá thực tế là giá phát sinh trong quá trình giao dịch của năm báo cáo. Giá thực
tế phản ánh sự vận động thống nhất của giá trị sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trong
sản xuất - kinh doanh, trong quá trình lưu thông, phân phối và sử dụng cuối cùng
với sự vận động tiền tệ, tài chính, thanh toán. Qua đó giúp ta nhận thức đúng đắn
thực tiễn khách quan về cơ cấu kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong
sản xuất, mối quan hệ phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với
phần huy động vào ngân sách trong từng năm.
Giá thực tế báo cáo trong SNA là giá thị trường, tức là giá xuất hiện trên thị
trường, giá theo đó người bán sản phẩm và người mua mua sản phẩm trên thị
trường, bao gồm giá cơ bản, giá sản xuất và giá sử dụng cuối cùng theo phạm vi
tính và nội dung kinh tế của từng loại giá.
Giá cơ bản (giá bán buôn
xí nghiệp trước đây)
=
Chi phí
sản
xuất
+
Lợi nhuận
xí nghiệp
Giá sản xuất =
Giá cơ
bản
+
Thuế sản xuất và thuế hàng hoá (đã
trừ các khoản trợ giúp của Nhà
nước)
Giá sử dụng = Giá sản xuất + Chi phí lưu thông
(thương nghiệp và vận tải)
Mối quan hệ giữa các loại giá như sau :
Chi phí sản
xuất
Lợi nhuận xí
nghiệp
Giá cơ bản
Thuế sản xuất
và hàng hoá
Giá sản xuất Chi phí lưu thông
Giá sử dụng
Căn cứ mục đích nghiên cứu mà tính theo loại giá thích hợp.
♦ Giá so sánh năm gốc :
Giá so sánh năm gốc là lấy giá sản xuất thực tế của một năm nào đó, trên cơ sở
đó tính đổi các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của các năm khác theo giá năm gốc,
nhằm loại trừ sự ảnh hưởng của yếu tố giá trong mỗi năm để nghiên cứu sự thay
đổi thuần về khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, năm được chọn làm gốc để tính giá so sánh có
thể là năm trước hoặc năm sau năm báo cáo. Trong thực tế thường chọn năm
trước năm đầu của 5 năm kế hoạch. Ví dụ, thời kỳ kế hoạch 1990 -1995 chọn giá
sản xuất thực tế năm 1989 làm gốc; thời kỳ kế hoạch 1995 - 2000 chọn giá sản
xuất thực tế năm 1994 làm gốc. Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
theo giá năm gốc.
Ngoài ra, kết quả sản xuất còn được tính theo giá cố định. Giá cố định là loại
giá so sánh đặc biệt, do nhà nước tính toán, ban hành và thường được cố định
trong một thời kỳ dài.
1.1.2. Khái niệm, ý nghĩa của tổng sản phẩm quốc nội
1.1.2.1. Khái niệm
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross Domestic Product) là toàn bộ sản
phẩm vật chất và dịch vụ do tất cả các ngành kinh tế mới sáng tạo ra trong từng
thời kỳ. Là một bộ phận của giá trị sản xuất còn lại sau khi trừ đi chi phí trung
gian. Đó là bộ phận giá trị mới do lao động sản xuất tạo ra và khấu hao TSCĐ
trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ).
Hay nói cách khác, tổng sản phẩm quốc nội bằng tổng giá trị tăng thêm của
tất cả các ngànhvà thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân tạo ra trong
một thời kỳ nhất định.
Giá trị tăng thêm (VA - Value Added) và tổng sản phẩm quốc nội giống nhau
về nội dung (các yếu tố giá trị hợp thành C
1
+ V + M ) nhưng khác nhau về phạm
vi tính toán. C
1
+ V + M của các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân được gọi là
giá trị tăng thêm (VA), C
1
+V + M của toàn bộ nền KTQD được gọi là tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
Quy mô tổng sản phẩm quốc nội là chỉ tiêu tuyệt đối thời kỳ, được tính theo
đơn vị giá trị (theo giá hiện hành, so sánh và cố định).
1.1.2.2 Ý nghĩa
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các
ngành, thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ
nhất định( thường là một năm ). Đó là nguồn gốc mọi khoản thu nhập, nguồn
gốc sự giàu có và phồn vinh của xã hội. Nó không chỉ biểu hiện hiệu quả của tái
sản xuất theo chiều sâu mà cả hiệu quả tái sản xuất theo chiều rộng, là một trong
những cơ sở quan trọng để tính các chỉ tiêu kinh tế khác.
Tổng sản phẩm quốc nội là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá
sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, nghiên cứu khả năng tích luỹ, huy động
vốn, tính toán các chỉ tiêu đánh giá mức sống dân cư, so sánh quốc tế, xác định
trách nhiệm của mỗi nước đối với các tổ chức quốc tế
1.1.2.3 Cơ cấu tổng sản phẩmquốc nội
Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức :
- Ngành, vùng, thành phần kinh tế nhằm chỉ rõ vai trò của từng ngành, vùng,
thành phần kinh tế trong việc tạo ra tổng sản phẩm quốc nội.
- Yếu tố cấu thành giá trị : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội gồm : C
1
, V, M.
- Loại thu nhập : Toàn bộ tổng sản phẩm quốc nội chia ra thu nhập của các
hộ (người lao động), thu nhập của các doanh nghiệp và của nhà nước.
- Theo mục đích sử dụng
Xét theo quan điểm vật chất, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : tiêu dùng
cuối cùng vủa cá nhân và xã hội, tích luỹ, xuất khẩu hàng hoá thuần.
Xét theo quan điểm tài chính, tổng sản phẩm quốc nội bao gồm : chi cho tiêu
dùng cuối cùng của hộ và chính phủ, tiết kiệm, số dư quan hệ kinh tế với nước
ngoài.
1.1.3 Nguyên tắc tính tổng sản phẩm quốc nội
Là một bộ phận của tống giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc nội được tính
theo nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc thường trú (hay theo lãnh thổ kinh tế ) : Chỉ được tính vào GDP
kết quả sản xuất của các đơn vị thường trú.
- Tính theo thời điểm sản xuất : Kết quả sản xuất của thời kỳ nào được tính vào
GDP của thời kỳ đó.
- Tính theo giá thị trường
Các nguyên tắc trên cần được quán triệt khi tính toán, phân tích các chỉ tiêu
thuộc GDP phù hợp với các đặc điểm cụ thể của chúng.
1.1.4 Các phương pháp tính tổng sản phẩm quốc nội
Là một chỉ tiêu biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất, GDP vận động trải
qua ba giai đoạn : được sản xuất ra trong các ngành sản xuất, được phân phối để
hình thành các khoản thu nhập, được đem sử dụng để thoả mãn các nhu cầu của
cá nhân và xã hội. Tương ứng với ba giai đoạn vận động của nó có ba phương
pháp tính tổng sản phẩm quốc nội (phương pháp sản xuất, phương pháp phân
phối và phương pháp sử dụng cuối cùng).
Tổng sản phẩm quốc nội thường được tính theo ba phương pháp theo quá
trình vận động từ sản xuất - phân phối đến sử dụng.
1.1.4.1 Phương pháp sản xuất
1.1.4.1.1 Công thức tổng quát :
Tổng sản phẩm
quốc nội
=
Tổng giá trị
sản xuất
-
Chi phí
trung gian
GDP = GO - IC
♦ Tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất của toàn bộ nền
kinh tế theo từng kỳ : quý, 6 tháng, năm. Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng
giá trị sản xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế.
Tổng giá trị sản xuất bao gồm toàn bộ các yếu tố : Chi phí trung gian và giá
trụ mới tăng thêm, tổng giá trị sản xuất đã sản xuất ra trong kỳ được sử dụng
cho nhu cầu sản xuất, cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và xã hội (Nhà
nước), cho tích luỹ tài sản và xuất khẩu ra nước ngoài.
Như vậy, tổng giá trị của toàn bộ nền kinh tế đã tính trùng giữa các thành
phần chi phí trung gian. Ví dụ : giá trị sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra đã tính
vào giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp chế biến lương thực
lại tính một lần nữa sản phẩm nông nghiệp đã sử dụng cho sản xuất trong ngành
này. Giá trị sản phẩm vật liệu xây dựng đã tính vào giá trị sản xuất ngành công
nghiệp chế biến. Ngành xây dựng sử dụng sản phẩm trên vào xây dựng các công
trình nên trong giá trị sản xuất ngành xây dựng lại tính thêm một lần nữa giá trị
sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
Sự tính trùng trong chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất phụ thuộc vào mức độ chi
tiết của phân ngành kinh tế quốc dân. Phân ngành kinh tế càng chi tiết, mức độ
tính trùng của chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất càng lớn.
♦Chi phí trung gian là bộ phận cấu thành tổng giá trị sản xuất bao gồm
những chi phí vật chất và dịch vụ cho sản xuất (không kể khấu hao). Đó là chi
phí sản phẩm các ngành khác nhau để sản xuất sản phẩm của một ngành nào đó.
Chi phí trung gian bao gồm :
. Chi phí vật chất
- Nguyên vật liệu chính, phụ
- Bán thành phẩm
- Nhiên liệu
- Động lực
- Giá trị công cụ lao động là vật rẻ tiền mau hỏng được phân bổ trong năm,
quần áo, dụng cụ bảo hộ lao động dùng trong thời gian làm việc.
- Sửa chữa nhỏ nhà xưởng, máy móc
- Thiệt hại tài sản lưu động trong định mức
- Chi phí vật chất khác
 Chi phí dịch vụ
- Cước vận tải, bưu điện
- Chi phí tuyên truyền, quảng cáo ;
- Phí dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm ;
- Công tác phí ( không kể phụ cấp đi đường,lưu trú );
- Chi phí đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, chuyên gia
- Chi phí bảo vệ, vệ sinh môi trường ;
- Chi phí dịch vụ pháp lý ;
- Chi phí phòng cháy chửa cháy ;
- Chi nhà trẻ, mẫu giáo;
- Chi thường xuyên về y tế, văn hoá, thể dục thể thao
- Chi tiếp khách
- Dịch vụ khác
Cần lưu ý là, chi phí trung gian là một bộ phận của giá trị sản xuất. Trong cấu
thành chi phí trung gian không có chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí thù lao lao
động. Chênh lệch giữa tổng giá trị sản xuất và chi phí trung gian là VA, còn
chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất là lợi nhuận. Trong chi phí trung
gian còn bao gồm những khoản chi phí trước đây không được tính vào chi phí
sản xuất như chi phí cho nghỉ mát, điều dưỡng do doanh nghiệp trả. Các hoạch
toán như vậy cho phép tính đầy đủ chi phí mà doanh nghiệp đã thực tế bỏ ra và
xác định chính xác hơn hiệu quả chi phí.
Cần phân biệt hai phạm trù, hai chỉ tiêu khác nhau có liên quan với nhau : chi
phí trung gian và tiêu dùng trung gian.
Xét về nội dung : Khái niệm và nội dung chi phí trung gian đã được trình
bày ở trên, còn tiêu dùng trung gian là tiêu dùng cho sản xuất. Nói chi phí trung
gian tức là nói để sản xuất sản phẩm một ngành cần chi phí bao nhiêu sản phẩm
các ngành. Nói tiêu dùng trung gían là nói trong số sản phẩm được sản xuất ra
của một ngành, có bao nhiêu sản phẩm được dùng làm tư liệu sản xuất để sản
xuất sản phẩm các ngành.
Xét về quy mô : Trong phạm vi từng ngành, chi phí trung gian thường khác
tiêu dùng trung gian. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng chi phí
trung gian bằng tổng tiêu dùng trung gian.
Xét về tác dụng : Chi phí trung gian là cơ sở tính giá trị tăng thêm. Xét chi
phí trung gian là xét sản xuất theo quan điểm tài chính. Tiêu dùng trung gian liên
quan đến chỉ tiêu tiêu dùng cuối cùng và sử dụng cuối cùng, xét tiêu dùng trung
gian là xét sản xuấ theo quan điểm vật chất.
Chi phí trung gian được tính theo nguyên tắc :
- Chỉ những yếu tố nào đã được tính vào tổng giá trị sản xuất mới được tính
vào chi phí trung gian.
- Giá tính chi phí trung gian là giá sử dụng khi tính giá trị sản xuất của các
yếu tố thuộc chi phí trung gian.
1.1.4.1.2 Xác định tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo phương pháp sản
xuất
Xác định tổng sản phẩm quốc nội theo phương pháp sản xuất là xác định trực
tiếp từ người sản xuất thông qua các yếu tố chi phí và doanh thu đạt được trong
kỳ nghiên cứu ( thường là một năm)
Công thức tổng quát :
Tổng sản
phẩm quốc
nội
=
Tổng giá trị
sản xuất của
các ngành KT
-
Tổng chi phí
trung gian của
các ngành
(TSPQN) (TGTSX) (CPTG)
GDP = ∑ VA = ∑ ( GO - IC ) = ∑ GO - ∑ IC
Như trên đã nói, trong phạm vi toàn bọ nền KTQD, tổng chi phí trung gian
bằng tổng tiêu dùng trung gian. Do vậy, còn có công thức tính GDP như sau :
Tổng sản
phẩm quốc
nội
=
Tông giá trị sản
xuất của các
ngành KT
-
Tổng tiêu dùng
trung gian SP
của các ngành
(TSPQN) (TGTSX) (TDTG)
Công thức này không dùng được khi tính giá trị tăng thêm các ngành, các đơn
vị, vì trong phạm vi từng ngành,chi phí trung gian thường không bằng tiêu dùng
trung gian.
Như trên đã nói, GDP là nguồn gốc mọi khoản thu nhập. Khi tổng hợp giá trị
tăng thêm (C
1
+ V + M ) các ngành để có (C
1
+ V + M) của toàn bộ nền KTQD
(GDP) chưa tính đến thu nhập từ thuế nhập khẩu nên trong thực tế GDP được
tính theo công thức :
GDP =
Tổng giá trị
sản xuất của
các ngành KT
-
Tổng chi phí
trung gian
các ngành
+
Tổng thuế nhập
khẩu sản phẩm vật
chất và dịch vụ
∑ GO
i
- ∑ IC
i
+ ∑ T
i
= Tổng giá trị tăng
thêm
+
Tổng thuế nhập khẩu sản
phẩm vật chất và dịch vụ
= ∑ ( C
1i
+ V
1
+ M
i
) + ∑ T
i
Trong đó :
GO
i
: Tổng giá trị sản xuất ngành i
IC
i
: Chi phí trung gian của ngành i
( C
1i
+ V
1
+ M
i
) : Giá trị tăng thêm ngành i
∑ T
i
: Tổng thuế nhập khẩu sản phẩm vật chất và dịch vụ
1.1.4.2 Phương pháp phân phối :
Tổng sản phẩm quốc nội bao gồm các yếu tố sau :
- Thu nhập từ sản xuất (SX) của người sản xuất
+ Tiền lương, tiền trả công lao động
+ Trích bảo hiểm xã hội trả thay lương
+ Thu nhập khác từ sản xuất
- Thuế sản xuất (không bao gồm thuế lợi tức, thuế thu nhập và các lệ phí
khác không coi là thuế sản xuất)
- Khấu hao tài sản cố định
- Giá trị thặng dư
- Thu nhập hỗn hợp từ sản xuất
Nếu chỉ tiêu Tổng giá trị sản xuất bị tính trùng giữa các ngành và thành phần
kinh tế thì Tổng sản phẩm quốc nội không bị tính trùng trong từng ngành, từng
thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Thuế sản xuất bao gồm :
+ Thuế doanh thu hoặc VAT
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt
+ Thuế xuất khẩu
+ Thuế nhập khẩu
+ Thuế vốn
+ Thuế tài nguyên : đất, rừng, hầm mỏ
+ Thuế môn bài
+ Các lệ phí khác coi như thuế sản xuất
- Giá trị thặng dư là phần còn lại của giá trị sản xuất sau khi trừ đi phần trả
thù lao cho người sản xuất, nộp thuế sản xuất cho nhà nước, khấu hao TSCĐ.
Trong đó bao gồm : trả lợi tức kinh doanh cho bên ngoài; trả lãi tiền vay (sau khi
trừ đi dịch vụ tiền vay đã tính vào chi phí trung gian); trả lợi tức thuê đất, tài
nguyên, vùng trời, vùng biển; lợi tức nộp cấp trên; thuế lợi tức, thuế thu nhâp
của doanh nghiệp; lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh còn lại của doanh
nghiệp.
- Thu nhập hỗn hợp bao gồm phần thu nhập của người sản xuất và lợi tức
kinh doanh. Chỉ tiêu này thường được tính đối với thành phần kinh tế cá thể, sản
xuất của hộ gia đình, hoạt động của khu vực kinh tế không chính quy (Informal
sector).
Phương pháp phân phối cũng được tính cho từng ngành kinh tế, thành phần
kinh tế rồi tổng hợp cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.1.4.3 Phương pháp sử dụng cuối cùng :
Tổng sản phẩm quốc nội được tính theo phương pháp này trên phạm vi toàn
bộ nền kinh tế theo công thức sau :
Tổng
sản
phẩm
quốc nội
(GDP)
=
Tiêu dùng
cuối cùng của
dân cư, hộ gia
đình và xã hội
(nhà nước)
+
Tích luỹ
tài sản
(TSCĐ,
TSLĐ)
+
Xuất khẩu
hàng hoá và
dịch vụ (giá
FOB)
-
Nhập
khẩu hàng
hoá và
dịch vụ
(giá FOB)
- Tiêu dùng cuối cùng (TDCC) của hộ gia đình là toàn bộ giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ hộ gia đình (cá nhân) đã sử dụng phục vụ cuộc sống thường
nhật . TDCC của hộ gia đình bao gồm TDCC từ thu nhập cuối cùng của hộ gia
đình và TDCC được hưởng không phải trả tiền từ các tổ chức dịch vụ nhà nước
và từ các đơn vị không vì lợi phục vụ trực tiếp cho hộ gia đình.
- TDCC của Nhà nước là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ Nhà
nước đã sử dụng để chi tiêu cho các nhu cầu thường xuyên của Nhà nước về
quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, đảm bảo xã hội bắt buộc
- Tích luỹ TSCĐ bao gồm : tích luỹ mới và sữa chửa lớn TSCĐ hữu hình ;
tích luỹ TSCĐ vô hình; chi phí đầu tư làm tăng giá trị TSVĐ hữu hình không
phải là kết quả sản xuất ; tích luỹ tài sản thuê tài chính
- Tích luỹ tài sản lưu động bao gồm : nguyên, nhiên, vật liệu dự trữ cho sản
xuất; thành phẩm, bán thành phẩm tồn kho; sản phẩm dở dang.
- Xuất, nhập khẩu bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ được mua
bán, trao đổi, chuyển nhượng giữa các đơn vị thường trú và không thường trú
của nền kinh tế quốc dân. Xuất nhập khẩu bao gồm xuất nhập khẩu tại chổ và
xuất nhập khẩu qua biên giới.
1.2 Đặc điểm tình hình thị xã Tam Kỳ
Năm 1997 tỉnh Quảng Nam được tái lập theo Nghị quyết Quốc hội kỳ họp
thứ 10, khoá VIII, Tam Kỳ trở thành thị xã tỉnh lỵ là trung tâm kinh tế - chính trị
- văn hoá của tỉnh Quảng Nam.
Thị xã Tam Kỳ cách thành phố Đà Nẵng 70km về phía Bắc, cách khu công
nghiệp Dung Quất 40km về phía Nam, nằm trong vùng phát triển kinh tế Đà
Nẵng - Dung Quất, vùng trọng điểm phát triển kinh tế của miền Trung. Diện tích
tự nhiên 343,72km
2
, có 21 đơn vị hành chính (gồm 8 phường và 13 thị xã), diện
tích đất đô thị 36km
2
(3562 ha) chiếm 10,6% tổng diện tích, diện tích đất xây
dựng đô thị 14,6km
2
chiếm trên 40% diện tích đất đô thị. Dân số trung bình
172.378 người (năm 2002), trong đó dân số thành thị 55.073 người, chiếm
31,94% tổng số dân. Mật độ dân số bình quân toàn thị xã 502 người/km
2
.
Cùng với việc lãnh đạo phát triển kinh tế, trên lĩnh vực quy hoạch, đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng đã được chú trọng : Công tác quy hoạch được tập trung, đã
hoàn thành quy hoạch khu nội thị, khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai), khu
văn hoá du lịch biển Tam Thanh, khu dân cư thương mại Bạch Đằng, hệ thống
giao thông, mạng lưới chợ nông thôn và nội thị, các khu dân cư mới. Đang xúc
tiến quy hoạch và xử lý rác thải, mạng lưới trường học, nuôi trồng thuỷ sản, hệ
thống thuỷ lợi, vùng nguyên liệu.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có bước khởi sắc đáng kể. Trong 6 năm đã
đầu tư trên địa bàn hơn 720 tỷ đồng. Trong đó, thị xã làm chủ đầu tư 176 tỷ
đồng, chiếm 24,1%. Ngoài ra, còn huy động sự đóng góp trong dân với phương
châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “dân làm Nhà nước hỗ trợ” như : bê
tông hoá giao thông nông thôn, đường kiệt nội thị, kiên cố hoá kênh mương thuỷ
lợi, lát vỉa hè, giải toả xây dựng các công trình công cộng, mở rông đường Trần
Cao Vân sự đóng góp ấy là to lớn, chưa thể thống kê hết.
Trong 6 năm qua, cơ bản hình thành cơ sở hạ tầng khu hành chính tỉnh lỵ.
Nhiều công trình đã đưa vào sử dụng như : trụ sở làm việc của các cơ quan
Trung ương, tỉnh, thị xã, các cơ sở phúc lợi xã hội như : Đài phát thanh truyền
hình tỉnh, trung tâm văn hoá thông tin tỉnh, bệnh viện Quảng Nam, bệnh viện y
học dân tộc tỉnh, Trung tâm thể thao, hạ tầng kinh tế kỹ thuật như : hệ thống tài
chính - ngân hàng, điện lực, bưu chính viễn thông khá hoàn chỉnh, góp phần
đáng kể cho sự phát triển đô thị. Các tuyến đường ngang, dọc khu hành chính
tỉnh, đương Hùng Vương, cầu Tam Kỳ 2, cầu Nguyễn Văn Trỗi các tuyến nội
thị đã chỉnh trang nâng cấp trên 15km đường nhựa. Cùng với việc mở rông đô
thị có 12 khu dân cư mới hình thành với tổng kinh phí đầu tư trên 35 tỷ đồng. Hệ
thống cấp nước sạch, điện chiếu sáng, cảnh quan, môi trường sinh thái đô thị, hệ
thống cây xanh vỉa hè, đường kiệt nội thị, thu gom xử lý rác thải được đầu tư
nâng cấp mở rộng và xây dựng mới.
Mặc dầu Tam Kỳ là một đô thị nhưng khu vực nông thôn có một vùng rông
lớn, chiếm hơn 2/3 diện tích và dân số toàn thị xã, lại là vùng còn nhiều khó
khăn nhất, 6 năm qua đã tập trung gần 100 tỷ đồng, xây dựng mới, sữa chửa
nhiều cầu cống và các tuyến giao thông liên xã, liên thôn, hệ thống trạm xá được
đầu tư tu sữa nâng cấp, 9/13 xã được xây dựng trụ sở làm việc mới, nhiều trường
học ở vùng lũ, ở vùng trọng điểm được đầu tư tầng hoá. Bộ mặt nông thôn đã đổi
thay, đời sống nhân dân được tăng lên đáng kể, khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị được rút ngắn.
Trên lĩnh vực thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ. Tổng thu ngân sách trên
địa bàn tăng bình quân hằng năm 10 %, đảm bảo được nhu cầu chi thường xuyên
và giành một phần cho đầu tư phát triển. Năm 2002 tổng chi ngân sách tăng gấp
4 lần so với năm 1996 và cơ cấu chi đầu tư phát triển chiếm 44 % tổng chi.
Trong 6 năm qua, đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài trên 63 tỷ đồng. Trong
đó dự án điện OPEC trên 10 tỷ, dự án cơ sở hạ tầng nông thôn 10 tỷ, dự án nhà
máy nước 30 tỷ và các nguồn viện trợ khác tăng 3 tỷ đồng (chưa kể các dự án do
tỉnh, trung ương làm chủ đầu tư), và hiện đang lập các dự án kêu gọi đầu tư
khoảng 47 triệu USD.
Xuâït phát từ quan điểm “ Phát triển kinh tế gắn liền với giải quyết tốt các
vấn đề VH - XH “, trong những năm qua, trên lĩnh vực văn hoá xã hội đã có
nhiều cố gắng, giải quyết tốt những những vấn đề bức xúc như đảm bảo cơ sở
vật chất tối thiểu cho dạy và học, đa dạng hoá các loại hình trường lớp ở các cấp
học, bậc học. Khuyến học, khuyến tài phát triển sâu rộng đến tận thôn tổ, tộc họ;
từng bước chuẩn hoá được đội ngũ; hoàn thành phổ cập tiểu học và xoá mù chữ,
8/20 xã, phường đã phổ cập THCS trong độ tuổi. Công tác chăm sóc sức khoẻ
ban đầu cho nhân dân đã được chú trọng, 20/20 trạm y tế xã, phường được nâng
cấp, xây mới. Đội ngũ thầy thuốc ngày được nâng cao về chất lượng, 60 % trạm
xá xã, phường có bác sĩ. Thựchiện có kết quả nhiều chương trình y tế quốc gia
như TCMR, thanh tóan bệnh phong
Trong định hướng phát triển kinh tế, thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ chuyển dịch
theo hướng công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch - nông nghiệp . Chính
vì vậy, việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với các chính sách ưu
đãi để đầu tư phát triển công nghiệp tại khu công nghiệp Thuận Yên (Trà Cai),
cụm công nghiệp TTCN Trường Xuân, các cụm công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp nội thị, ven đô khác và khai thác tiềm năng du lịch tại hồ Phú Ninh, biển
Tam Thanh, tháp Chiên Đàn, địa đạo Kỳ Anh, nhà tưởng niệm cụ Phan Châu
Trinh là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian đến.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét