5
- Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dòch vụ được tiến hành theo phương thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy đònh và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa,
tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, quảng cáo của bên
nhượng quyền.
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong
việc điều hành công việc kinh doanh.
Ngoài ra còn có rất nhiều đònh nghóa khác nữa nhưng cũng vẫn dựa trên một số ý
cơ bản của các trích dẫn nói trên.
Tóm lại, theo tôi có thể hiểu Franchise chính là việc bên nhượng quyền cho phép
bên nhận nhượng quyền được tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa hay cung ứng
dòch vụ theo những điều kiện nhất đònh và bên nhận nhượng quyền phải trả cho bên
nhượng quyền một khoản phí.
1.1.3 Các hình thức nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product Distribution Franchise)
Đây là hình thức mà bên nhượng quyền cho phép bên nhận nhượng quyền phân
phối sản phẩm do mình sản xuất, dòch vụ của mình trong phạm vi khu vực và thời
gian nhất đònh. Bên nhận nhượng quyền có thể sử dụng thương hiệu (Brand), biểu
tượng, tên nhãn hiệu (Trade mark), logo, khẩu hiệu (slogan), … bên nhượng quyền sẽ
không nhượng lại cách thức kinh doanh. Bên mua Franchise sẽ quản lý điều hành cửa
hàng của mình khá độc lập, ít bò ràng buộc bởi những quy đònh từ phía chủ thương
hiệu, thậm chí có thể biến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình. Phương
thức này có nhận ra qua các đại lý nước giải khát Coca Cola, Pepsi, bia 333, tiger, lớp
xe casumina, ……
Nhượng quyền sử dụng cách thức kinh doanh (Business Format Franchise)
Là hình thức nhượng quyền phổ biến, còn gọi là nhượng quyền kinh doanh hay
nhượng quyền thương mại. Hình thức này chặt chẽ hơn hình thức trên, trong đó bên
nhượng quyền không chỉ cho phép bên bên nhận nhượng quyền được phân phối sản
phẩm dưới thương hiệu của người nhượng quyền mà còn chuyển giao kỹ thuật kinh
doanh, công thức điều hành quản lý và huấn luyện nhân viên cho bên nhận nhượng
quyền. Đây là sự khác biệt quan trọng so với hình thức trên vì bên nhượng quyền sẽ
chuyển nhượng cho bên nhận quyền tất cả các yếu tố để tạo nên một hệ thống đồng
bộ chẳng hạn như : phải chọn đòa điểm kinh doanh ở đâu, chuẩn bò sản phẩm như thé
nào, mua nguyên vật liệu ở đâu … Bên nhượng quyền cũng thường giúp bên nhận
nhượng quyền trong việc điều hành , quản lý cơ sở nhượng quyền. Ngược lại, bên
nhận nhượng quyền phải trả một khoản phí cho bên nhượng quyền, có thể là một
khoản phí trọn gói, có thể là một khoản phí hàng tháng dựa trên doanh số, và cũng có
thể tổng hợp luôn cả hai khoản phí trên.
Phương thức nhượng quyền riêng lẻ “Single-Unit Franchise”
Đây là hình thức Franchise phổ biến nhất khi người mua Franchise ký kết hợp
đồng mua Franchise trực tiếp với người bán Franchise. Người bán Franchise có thể là
chủ thương hiệu, đại lý độc quyền hoặc đại lý Franchise vùng. Đặc điểm của phương
thức này là chủ thương hiệu có thể làm việc và kiểm tra sâu sát từng doanh nghiệp
được nhượng quyền. Người mua Franchise lẻ được cấp quyền kinh doanh tại một đòa
6
điểm thời gian nhất đònh và trả một khoản phí cho bên bán. Khi hết thời gian hợp
động muốn gia hạn người mua trả thêm một khoản phí. Phí Franchise thu được không
phải chia cho một đối tác trung gian nào.
Người mua Franchise theo phương thức này không thể nhượng lại (sub-franchise)
cho bên thứ ba hay tự ý mở thêm cửa hiệu kinh doanh cùng thương hiệu. Vì thế người
mua nhượng quyền lẻ thường chỉ có thể mua được qua các Master Franchise hay các
chủ thương hiệu nhỏ.
Phương thức nhượng quyền nhiều cửa hàng riêng lẻ “Multiple-Unit”
Có nhiều đối tác sau khi kinh doanh thành công cửa hàng Franchise đầu tiên
nhưng lại không muốn phát triển thành đại lý franchise độc quyền (Master franchise)
mà họ chỉ muốn mở thêm một hay nhiều cửa hàng franchise riêng lẻ tương tự. Trong
trường hợp này họ trở thành đối tác sở hữu cùng lúc nhiều cửa hàng franchise mà
thuật ngữ chuyên môn gọi là multiple single-unit operator.
Phương thức nhượng quyền độc quyền “Master Franchise”
Là hình thức nhượng quyền mà chủ thương hiệu cấp phép cho người mua độc
quyền kinh doanh thương hiệu của mình trong một khu vực nhất đònh (thành phố,
lãnh thổ, quốc gia, …) trong một thời gian nhất đònh.
Để được độc quyền, doanh nghiệp mua Franchise phải trả một khoản phí
Franchise ban đầu riêng biệt, thường là cao hơn nhiều so với hợp đồng mua Franchise
riêng lẻ. Bù lại, họ có quyền chủ động tự mở thêm nhiều cửa hàng hay bán Franchise
lại cho bất kỳ ai nằm trong khu vực mà mình kiểm soát.
Phần phí Franchise (gồm phí ban đầu và phí hàng tháng) thu được từ phía người
mua Franchise sẽ được chủ thương hiệu chia cho đại lý Franchise độc quyền theo tỉ lệ
thỏa thuận. Thường thì phía Master Franchise sẽ được chi nhiều hơn vì phần lớn công
sức và chi phí để tìm kiếm và phát triển số người mua Franchise trong khu vực do
phía đại lý Franchise độc quyền gánh chòu.
Đây là hình thức phổ biến nhất và nhanh nhất trong việc đưa thương hiệu xâm
nhập vào thò trường nước ngoài. Với hình thức này, chủ thương hiệu đã chuyển hầu
như toàn bộ gánh nặng về phát triển thương hiệu ở khu vực đó cho bên mua master
Franchise.
Phương thức nhượng quyền phát triển khu vực “Area Developer”
Đây là hình thức trung gian của master franchise và single-unit franchise. Người
mua franchise phát triển khu vực sẽ được độc quyền trong một phạm vi và thời gian
nhất đònh. Đối tác mua franchise phát triển khu vực không được bán franchise cho bất
cứ ai nhưng cũng không phải cung cấp các dòch vụ cho ai như đối với trường hợp
master franchise. Để được độc quyền trong một khu vực nhất đònh, người mua
franchise phát triển khu vực phải trả một khoản phí franchise ban đầu tương đối cao
và phải cam kết phải phát triển bao nhiêu cửa hàng theo một tiến độ thời gian đã ghi
rõ trong hợp đồng đã được thống nhất với chủ thương hiệu. Nếu không đáp ứng đúng
những thỏa thuận trong hợp đồng, doanh nghiệp này sẽ bọ mất ưu tiên độc lập tương
tự như đối với trường hợp master franchise.
Phương thức nhượng quyền liên doanh “Join-Ventures”
7
Với hình thức này chủ thương hiệu sẽ liên doanh với một đối tác khác tại khu vực
mà phía chủ thương hiệu muốn Franchise và liên doanh này sẽ đóng vai trò là một
đại lý Franchise độc quyền. Việc lựa chọn đúng công ty đối tác để liên doanh là tối
quan trọng vì một khi chọn nhầm đối tác cả thò trường xem như bế tắt. Trong nhiều
trường hợp, chủ thương hiệu góp vốn vào liên doanh bằng chính thương hiệu, bí quyết
kinh doanh và đôi khi thêm tiền mặt và quy ra tỉ lệ phần trăm vốn góp tùy thỏa thuận
giữa hai bên. Đối tác liên doanh thường góp vốn bằng tiền mặt và kiến thức sự am
hiểu về thò trường tại khu vực mà phía liên doanh đang đóng.
1.1.4 Một số ngành, lónh vực thường nhượng quyền thương mại
Lòch sử hoạt động franchise đánh dấu những ngành nghề thực hiện franchise
thường là cửa hàng thức ăn nhanh, cà phê, khách sạn, nhà hàng. Tuy nhiên, trên thực
tế hiện nay hầu như ngành nghề nào cũng có thể nhân rộng mô hình franchise như :
khách sạn, bất động sản, nữ trang, dòch vụ máy tính, dòch vụ thể hình – chăm sóc sức
khỏe, dòch vụ spa, giày dép, quần áo, y tế, giáo dục, dòch vụ ôtô – môtô, dòch vụ giao
nhận – chuyển fax nhanh, bảo vệ – vệ só, bảo hiểm, trang trí nội thất, bán lẻ…
Trong các ngành nêu trên, theo đánh giá và xếp loại của Hiệp hội franchise Quốc
tế thì ngành thức ăn nhanh và kinh doanh bán lẻ vẫn là ngành kinh doanh nhượng
quyền nhiều nhất ở các nước trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam.
(Xem phụ lục : 10 thương hiệu nhượng quyền đứng đầu danh sách Franchise 500
của năm 2006 do tạp chí Entrepreneur bình chọn)
1.1.5 Ưu và nhược điểm của nhượng quyền thương mại
Ưu điểm
Thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ : Với đặc điểm thò trường Việt Nam hiện
nay, một thò trường đang phát triển với nhiều loại hình doanh nghiệp và trong số này
vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn. Đối với các doanh nghiệp
này, việc kiếm được một chổ đứng trên thò trường là đặc biệt khó khăn bởi các nguồn
lực bò hạn chế. Với quy mô nhỏ franchise là mô hình đầu tư hiệu quả và an toàn cho
doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này các doanh nghiệp sẽ có nhiều kinh nghiệm
hơn trong quản lý, phân phối, quảng cáo, nắm bắt được cách thức kinh doanh, tiếp
cận được khoa học kỹ thuật mới,… từ đó doanh nghiệp sẽ tự tin hơn trong quá trình
kinh doanh của mình.
Ít rủi ro và dễ thành công: chủ thương hiệu tạo dựng được hình ảnh về thương hiệu
của mình trong tâm trí của khách hàng nên khi nhượng quyền lại thương hiệu cho một
người khác thì người này cũng sẽ có được những quyền lợi mà thương hiệu đó tạo ra.
Bên cạnh đó, bên nhận nhượng quyền ngoài việc được nhượng quyền thương hiệu nổi
tiếng còn được huấn luyện , đào tạo để họ có một cửa hàng thống nhất với cả hệ
thống nhượng quyền. Với mô hình đã được người đi trước trải nghiệm, thì mô hình
nhượng quyền chắc chắn sẽ có tỷ lệ thành công cao.
Huy động vốn dễ dàng: thường xác thành công cao nên các tổ chức tín dụng ủng
hộ các đối tác franchise tiềm năng, và có nhiều ưu đãi đối với các khách hàng này
trong quá trình huy động vốn kinh doanh.
Giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tích lũy kinh nghiệm để tạo tiền đề phát triển.
Thông qua hoạt động này, họ sẽ dần nắm bắt được những cách thức trong quản lý,
8
kinh doanh, phân phối, tiếp thò,… và giúp họ tự tin hơn cho hoạt động kinh doanh của
riêng mình sau này.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Với sự
giúp đỡ qua lại từ phía người nhượng quyền, người nhận nhượng quyền. Các doanh
nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ mới, trình độ kỹ thuật quản lý
tiên tiến
Chi phí thấp : đây là một kết luận của hiệp hội nhượng quyền thương mại quốc tế
tổng kết, một đặc trưng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người muốn làm chủ
kinh doanh thương hiệu nổi tiếng nhưng không đủ vốn. Bằng phương thức kinh doanh
nhượng quyền này, người nhận nhượng quyền không những không tốn khoản phí để
xây dựng thương hiệu mà họ còn chia sẻ chi phí này với chủ nhượng quyền và các
cửa hiệu franchise khác.
Giúp chủ thương hiệu nhanh chóng chiếm lónh thò trường trong và ngoài nước. Đây
là cách nhanh nhất và an toàn nhất để chiếm lónh thò trường vì chủ thương hiệu sẽ
chia sẻ những rũi ro, vốn đầu tư của mình cho người nhận quyền.
Thỏa mãn tốt cả bên mua và bên bán : về phía người bán, họ sẽ cung cấp ra thò
trường những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng, chất lượng đảm bảo, hoạt động
quản cáo, huấn luyện nhân viên cũng được bên nhượng quyền quan tâm và hỗ trợ từ
đó uy tín của họ sẽ tăng lên. Về phía khách hàng, ưu điểm của một cửa hàng nhượng
quyền là cảm giác thoải mái, yên tâm với chất lượng sản phẩm mình đang sử dụng.
Nhược điểm
Chi phí thành lập một cửa hàng franchise thường cao hơn 40% so với chi phí bỏ ra
kinh doanh một cửa hàng độc lập. Do có nhiều chi phí phát sinh trong quá trình khi
mua franchise.
Tính lây lan trong hệ thống: có sự phụ thuộc lớn giữa các cửa hiệu nhượng quyền
và chủ thương hiệu. Khi một cửa hàng trong hệ thống nhượng quyền gặp rắc rối về
sản phẩm, cung cách phục vụ rất dễ ảnh hưởng đến cả hệ thống nhượng quyền vì
khách hàng chỉ biết đến thương hiệu chứ không quan tâm đến tính riêng biệt của cửa
hàng. Hay trường hợp khi thương hiệu chết sụp đổ, cả hệ thống nhượng quyền sẽ chết
theo. Đây là nhược điểm quan trọng chủ thương hiệu cần quan tâm để giữ uy tín cho
thương hiệu của mình hay người nhận nhượng quyền cần lưu ý khi chọn lựa thương
hiệu nhượng quyền.
Tính độc lập trong kinh doanh : do sự ràng buộc của hợp đồng franchise hay mô
hình franchise nói chung, người chủ cửa hàng tuy bỏ 100% vốn đầu tư nhưng không
hoàn toàn được tự do quyết đònh hay thay đổi gì nằm trong cửa hàng của mình. Ví dụ:
trang trí nội thất, đồng phục, thực đơn, giờ hoạt động, …
Dễ phát sinh tranh chấp giữa các bên : franchise là mô hình gắn chặt quyền lợi
của hai bên nhận quyền và nhượng quyền. Thường thỏa thuận giữa 2 bên bằng hợp
đồng, nếu các điều khoản không chặt chẽ dễ xảy ra tranh chấp về khoản phí trên
doanh thu hay trường hợp tất cả công sức và tiền của mà chủ cửa hàng franchise bỏ ra
để quảng cáo củng cố thêm cho thương hiệu đều sẽ thuộc về người chủ thương hiệu.
Điều này thường dẫn đến một số cửa hàng mua franchise lưỡng lự, không nhiệt đình
đóng phí franchise hay quảng cáo cho hệ thống.
9
Có thể tạo sự nhàm chán cho khách hàng : tính đồng bộ là một trong những yếu tố
tạo nên sự thành công của hoạt động nhượng quyền nhưng điều đó có nghóa là khách
hàng sẽ phải thưởng thức cùng một loại bánh, một hương vò giống hệt nhau, khung
cảnh và cung cách phục vụ y hệt. Điều này có thể tạo nên sự nhàm chán và mất tính
riêng biệt của từng cửa hàng tại từng vùng.
1.1.6 Tính phí nhượng quyền
Quyền kinh doanh được bên bán (Franchisor) bán cho bên mua (Franchisee) để
thu về một số tiền ban đầu, thường gọi là phí gia nhập hay phí nhượng quyền
(franchise fee). Số tiền này phải giao ngay sau khi hợp đồng được ký kết. Hợp đồng
nhượng quyền (franchise agreement) này sẽ chi tiết hóa tất cả những điều khoản
ràng buộc và nghóa vụ của cả bên mua và bên bán, cũng như thời gian hợp đồng có
hiệu lực.
Phí franchise thực chất là giá mà người nhượng quyền bán cho người nhận nhượng
quyền và sản phẩm đây là mô hình kinh doanh nhượng quyền tùy theo hình thức được
đề cập ở trên. Với mỗi thương hiệu khác nhau thì chắc chắn mức phí này sẽ có sự
khác nhau. Việc đònh giá cho sản phẩm của mình nói chung lúc nào cũng khó khăn
và cần có nhiều sự cân nhắc. Đònh giá franchise cũng vậy, cần cân nhắc nhiều yếu tố
khác nhau :
Đầu tiên là mức độ nổi tiếng của thương hiệu, một yếu tố rất khó đònh giá, một
thương hiệu nổi tiếng sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho người được nhượng quyền hơn,
và phí nhượng quyền sẽ cao đối với những thương hiệu nổi tiếng hơn như :
MCDonald’s (500.000 USD - 1,5 triệu USD), KFC (250.000 USD - 300.000 USD), 7-
Eleven (150.000 USD - 750.000 USD), Kinh Đô (30.000 USD), nước mía siêu sạch
(80 tròêu VNĐ).
Phí franchise còn phụ thuộc vào đòa điểm nhượng quyền. Những nơi có khả năng
tiêu thụ tốt, tiềm năng phát triển tốt thì chi phí nhượng quyền sẽ cao hơn. Hay những
khu vực nào có mức sống cao thì chi phí nhượng quyền cũng sẽ cao. Điển hình Phở
24 nếu nhượng quyền tại Việt Nam đối tác phải bỏ ra từ 7.000USD – 10.000USD,
nhưng nếu nhượng quyền tại nước ngoài phải mất từ 12.000USD – 15.000USD.
Ngoài ra, phí franchise còn khác nhau tùy thuộc vào ngành nghề franchise. Không
phải ngành nghề nào cũng có cách tính phí nhượng quyền giống nhau vì lợi nhuận và
thời gian hoàn vốn sẽ khác nhau.
Phí nhượng quyền bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí duy trì thương hiệu
hàng tháng. Ngòai ra, các chi phí khác như phí bất động sản, máy móc thiết bò, thiết
kế, trang trí nội thất, bàn ghế, không được tính là phí nhượng quyền nhưng vẫn
được chủ thương hiệu yêu cầu đầu tư để đảm bảo tính đồng bộ. Ngân sách dành cho
quảng cáo (chi phí marketing, truyền thông, …) được trả đònh kỳ, khoản tiền này
thường được đưa vào tài khoản chung để sử dụng vào chiến dòch quảng cáo hay
khuyến mãi cho cả hệ thống trên phạm vi đòa phương hay toàn hệ thống.
Phí nhượng quyền ban đầu (initial fee) bao gồm quyền sử dụng tên và hệ thống
sản xuất, điều hành, phí này còn dùng trang trải cho việc đào tạo theo chế độ, những
thủ tục, tài liệu hướng dẫn, và một số chi tiết phụ trợ khác.
10
Phí duy trì thương hiệu hàng tháng (royalty fee) phần phí này thường được trích từ
doanh số bán hàng, phí này dao động từ 1-8% trên doanh thu. Tất cả khoản này phải
được đònh rõ trong hợp đồng nhượng quyền. Phí này được sử dụng vào mục đích duy
trì các loại dòch vụ tư vấn hỗ trợ mà bên bán sẽ cung cấp cho bên mua.
Bên cạnh đó, cách tính phí franchise cho đại lý độc quyền (master franchise) có
khác so với phí franchise dành cho đối tác mua franchise riêng lẻ (single-unit) vì
người mua master franchise có quyền bán lại và tự mở một số lượng cửa hàng nhất
đònh trong một phạm vi nhất đònh nên chi phí franchise chắc chắn sẽ cao hơn nhiều
và nó thường tỷ lệ thuận với số lượng cửa hàng được phép mở. Thông thường phí
franchise ban đầu dành cho đại lý độc quyền được tính trên dự toán tổng số cửa hàng
franchise có thể mở tại khu vực hay quốc gia đó nhân cho phí franchise của một cửa
hàng riêng lẻ. Ví dụ : phí franchise ban đầu cho một cửa hàng nhượng quyền là
10.000USD và tổng số cửa hàng tiềm năng có thể mở tại quốc gia nào đó là 10 cửa
hàng thì phí franchise ban đầu cho đại lý độc quyền sẽ là 100.000USD. Còn phí
franchise hàng tháng, chủ thương hiệu thường được chia một tỷ lệ phần trăm trên
từng cửa hàng franchise riêng lẻ mà đại lý độc quyền franchise bán cho các đối tác
đòa phương. Ví dụ: nếu đại lý độc quyền franchise tính 6% phí franchise hàng tháng
cho các đối tác mua franchise trong khu vực mình độc quyền kinh doanh thì chủ
thương hiệu có thể được chia 2%.
Trong một cuộc nghiên cứu gần đây với sự tham gia của 91 công ty có bán
franchise lớn nhất của Mỹ (ngành nghề khác nhau) có kết quả như sau:
Thâm niên trung bình của hệ thống franchise 21 năm
Tổng số cửa hàng trong một hệ thống franchise 2.652
Doanh số bình quân hàng năm 871 tỉ USD
Phí franchise ban đầu 28.559USD
Phí hàng tháng 5,5% trên doanh thu
Phí quảng cáo 2,9%
Thời hạn hợp đồng 14 năm
1.2 Quá trình phát triển của nhượng quyền thương mại
1.2.1 Quá trình phát triển
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức kinh doanh nhượng quyền đã xuất hiện
vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy nhiên, họat động nhượng quyền kinh
doanh (hay nhượng quyền thương mại) đã chính thức thừa nhận khởi nguồn, phát
triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi nhà máy Singer (sản xuất máy khâu) ký
kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác mình.
Franchise được phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945 (khi Thế Chiến II
kết thúc). Với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng, khách sạn và hệ thống kinh
doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự
phục vụ là đặc trưng cơ bản để nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương
thức này. Từ những năm 60, Franchise trở thành phương thức kinh doanh thònh hành,
thành công không chỉ tại Mỹ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp, …
Sự lớn mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Mỹ và một số nước Châu u
trong lónh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn – nhà hàng đã góp phần “truyền
11
bá” và phát triển Franchise trên khắp thế giới. Hoạt động Franchise đã có mặt tại hơn
150 nước trên thế giới, riêng tại Châu Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh
theo phương thức nhượng quyền.
Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển, hỗ trợ và
quảng bá hoạt động Franchise đã được thành lập. 1960 một số nhà nhượng quyền liên
kết lại và thành lập nên Hiệp Hội Franchise quốc tế IFA (International Franchise
Association) để bảo vệ hoạt động franchise và nghiên cứu sâu hơn về lónh vực này,
và có khoảng 30000 thành viên bao gồm các doanh nghiệp mua, bán Franchise. 1979
Ủy Ban Thương Mại Liên bang (the Federal Trade Commission) viết tắt FTC đã đưa
ra các quy đònh về hoạt động Franchise từ đó hoạt động franchise trở nên matnh mẽ
và nhanh ở Mỹ. Điển hình là Hội đồng Franchise Thế giới (World Franchise
Council), ra đời vào năm 1994, có thành viên là các hiệp hội Franchise của nhiều
quốc gia. Thông qua các tổ chức này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho
các nền kinh tế quốc gia đã được thực hiện như :
- Tổ chức các hội chợ Franchise quốc tế.
- Xây dựng niên giám Franchise khu vực, và trên toàn thế giới.
- Hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, Website để cung cấp thông tin cho
mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến Franchise…
- Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh Franchise.
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều quốc gia đã có
chính sách khuyến khích phát triển Franchise. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên luật hóa
Franchise và có các chính sách ưu đãi cho những cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh
theo phương thức Franchise. Chính phủ các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức,
Nhật, Ý,… cũng noi gương Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt
động Franchise, khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán Franchise
ra nước ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về Franchise của
các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên ngành về
Franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy tác động
của Franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng và là xu thế tất
yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát triển kinh tế liên quan
đến Franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và khuyến khích phát triển. Năm 1992,
Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh
nhượng quyền (Franchise development program) với mục tiêu gia tăng số lượng
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và
phát triển việc bán Franchise ra nước ngoài. Singapore, quốc gia láng giềng của
Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt động
nhượng quyền trong lónh vực cung cấp dòch vụ như đào tạo, y tế, du lòch, nhà hàng,
khách sạn, … Gần dây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính phủ Thái Lan cũng đã
có chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc nhượng quyền của các doanh
nghiệp Thái Lan tại thò trường nội đòa và quốc tế.
Trung Quốc đang trở thành thò trường tiềm năng của các thương hiệu nước ngoài
như: Mc Donald’s, KFC, Hard Rock Café, Chilli’s,… đồng thời đây là cứ đòa đầu tiên
12
để các tập đoàn này bán Franchise ra khắp Châu Á. Thông qua đó, hoạt động
Franchise của Trung Quốc trở nên ngày càng phát triển, Chính phủ Trung Quốc đã
thay đổi thái độ e dè chuyển sang khuyến khích, nhiều thương hiệu đang được “đánh
bóng” trên thò trường quốc tế thông qua các cuộc mua bán, sáp nhập nhằm chuẩn bò
cho kế hoạch đẩy mạnh hoạt động nhượng quyền ra bên ngoài, được xem là một
trong những động thái quan trọng để phát triển nền kinh tế vốn đang nóng của Trung
Quốc.
Ở Việt Nam franchise được manh nha xuất hiện vào giữa thập niên 90, khi mà
đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán càphê Trung Nguyên trên khắp mọi miền đất
nước. Mặc dù cách làm của Trung Nguyên lúc đó không hoàn toàn là franchise,
nhưng cũng phần nào thể hiện được những đặc trưng cơ bản của phương thức
franchise.
Năm 2004, Hội đồng Nhượng quyền thương mại Thế giới (WFC) đã tiến hành một
cuộc điều tra khẳng đònh rằng: đã tồn tại hơn 65 hệ thống franchise hoạt động tại
Việt Nam đa số là các thương hiệu nước ngoài. Mặc dù còn khá ít so với các quốc gia
láng giềng, nhưng với tình thế hiện nay, khi franchise đã được luật hóa, Việt Nam
chính thức bước qua cửa WTO, đã có nhiều nhận đònh rằng hoạt động franchise sẽ
phát triển như vũ bão.
1.2.2 Vai trò của nhượng quyền thương mại trong quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế
Vai trò của nhượng quyền thương mại đối với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
Sự cần thiết bán Franchise
Nhân rộng mô hình kinh doanh: phần lớn các doanh nghiệp muốn nhân rộng mô
hình kinh doanh của mình khi đã đạt được thành công. Tuy nhiên, khó khăn thường
gặp không ít thì nhiều ở các doanh nghiệp khi muốn mở rộng mô hình kinh doanh của
mình là tài chính. Ngòai vấn đề ngân sách, các yếu tố khác như đòa lý, con người,
kiến thức văn hóa đòa phương, … cũng là những trở ngại không nhỏ. Phương thức
nhượng quyền kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp chia sẻ khó khăn nêu trên cho bên
mua franchise. Và khi mô hình kinh doanh của doanh nghiệp được nhân rộng nhanh
chóng thì giá trò của công ty hay thương hiệu cũng lớn mạnh theo.
Tăng doanh thu: chủ thương hiệu có thể cải thiện doanh số của mình bằng việc
nhượng quyền sử dụng thương hiệu và công thức kinh doanh. Qua hình thức kinh
doanh nhượng quyền, chủ thương hiệu có thể nhận được khoản tiền: Phí nhượng
quyền ban đầu, phí hàng tháng, bán được các nguyên liệu đặc thù…
Tiết giảm được chi phí: các doanh nghiệp có áp dụng hình thức nhượng quyền đều
có ưu thế mua hàng giá rẻ hơn do mua số lượng lớn (phân phốicho các cửa hàng
nhượng quyền). Ngoài ra các chi phí về tiếp thò, quảng cáo cũng được tiết giảm nhờ
ưu thế chia nhỏ ra cho nhiều đơn vò cùng mang một nhãn hiệu.
Sự cần thiết mua Franchise
Đầu tư an toàn và khôn ngoan hơn: theo thống kê tại Mỹ với khoảng thời gian 5
năm kinh doanh thì trung bình 23% doanh nghiệp nhỏ kinh doanh độc lập có thể tồn
tại, trong khi đó 92% là doanh nghiệp mua franchise. Nói khác đi, xác suất thành
13
công của các doanh nghiệp mua franchise cao hơn nhiều so với doanh nghiệp mới bắt
đầu thử nghiệm mô hình kinh doanh lần đầu và nhãn hiệu chưa ai biết đến. Trong
một cuộc thử nghiệm về vò của sản phẩm nước khoáng. Người ta bí mật bỏ nước
khóang của thương hiệu không nổi tiếng vào chai của thương hiệu nổi tiếng và ngược
lại. Tất cả được yêu cầu chỉ ra sản phẩm nước khoáng nào tốt nhất. Kết quả cho thấy
đa số những người tham gia cuộc thử nghiệm đều cho rằng loại nước khoáng đựng
trong chai có thương hiệu nổi tiếng là tốt hơn. Điều này cho thấy sức mạnh của
thương hiệu trong quyết đònh của khách hàng hay nói cách khác khi mua franchise
của một sản phẩm đã có thương hiệu thì khá an tâm do phải có ngay một lượng khách
hàng tối thiểu ngay ban đầu.
Được chủ thương hiệu giúp đỡ: người mua franchise lúc nào cũng nhận được sự
giúp đỡ, hỗ trợ từ phía chủ thương hiệu trước và sau khi cửa hàng nhượng quyền khai
trương. Đây là lợi thế lớn, đặc biệt đối với những người mới tự kinh doanh lần đầu.
Trong thời gian trước khai trương, đối tác mua franchise được hỗ trợ đào tạo, thiết kế,
chọn đòa điểm cửa hàng, tiếp thò, quảng cáo,… Sau khai trương được hỗ trợ nhiều mặt,
trong đó nổi bật là khâu tiếp thò, quảng cáo và tái đào tạo.
Dễ vay tiền ngân hàng: do xác suất thành công cao hơn, nên các ngân hàng
thường tin tưởng hơn trong việc xét duyệt cho các doanh nghiệp mua franchise vay
tiền.
Chi phí quảng cáo, tiếp thò thấp hơn: các cửa hàng riêng lẻ trong hệ thống
franchise không phải tốn nhiều chi phí quảng cáo cho thương hiệu như đối với trường
hợp đứng ra kinh doanh độc lập. Chi phí quảng cáo chung thường được chủ thương
hiệu và tất cả cửa hàng trong hệ thống franchise chia sẻ nên có thể quảng cáo được
nhiều mà chi phí chia ra cho từng cửa hàng lại ít đi. Ngoài ra, do gộp chung với số
lượng lớn chi ohí quảng cáo cũng có thể được giảm.
Tự làm chủ lấy mình: Tuy phải tuân thủ nhiều quy đònh, hướng dẫn chung cho hệ
thống franchise nhưng người mua franchise có thể tự quyết đònh rất nhiều trong công
việc hàng ngày, giống như người chủ doanh nghiệp.
Nhãn hiệu được bảo hộ sẵn: đa số các thương hiệu, nhãn hiệu khi bán franchise đã
được đăng ký bảo hộ tại nhiều nước. Một khi chủ thương hiệu đã đăng ký bảo hộ rồi
thì người mua franchise không phải tốn chi phí này và khi có ai đó vi phạm bản
quyền thì sẽ được chủ thương hiệu hỗ trợ trong việc khiếu kiện.
Vai trò của nhượng quyền thương mại đối với nền kinh tế
Hoạt động nhượng quyền sẽ làm tăng sức mua trên thò trường vì sự mở rộng nhiều
cửa hàng, kênh phân phối của những thương hiệu nổi tiếng.
Giúp cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn và cơ hội sử dụng những hàng hóa chất
lượng hơn.
Giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động đây là vai trò quan trọng của
hoạt động này. Bên cạnh đó, họat động franchise còn đem lại cho nền kinh tế doanh
thu không nhỏ. Ở Việt Nam do hoạt động này còn khá mới mẻ nên chưa có một số
thống kê cụ thể là doanh số đem lại bao nhiêu và giải quyết công ăn việc làm cho
bao nhiêu lao động. Nhưng đối với các quốc gia có hoạt động nhượng quyền thì con
số này không nhỏ.
14
Trong giai đoạn hội nhập ngày nay, tạo lập môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài là một trong những điều ưu tiên hàng đầu giúp đất nước phát triển và Việt
Nam thật sự có đủ điều kiện như sức tiêu thụ mạnh, môi trường an toàn, dân số đông
và trẻ,… hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nhượng quyền.
Khi các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam họ sẽ đem vào những khoa học
kỹ thuật công nghệ mới, các mô hình cách thức quản lý tiên tiến vao và đây là cơ hội
tốt giúp phát triển công nghệ, trình độ quản lý trong nước.
Hoạt động nhượng quyền tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát
triển đặt biệt đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam với tỷ lệ những doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm khá cao trong nền kinh tế.
Ngoài ra hoạt động nhượng quyền còn giải quyết tốt bài toán về nguồn vốn đầu tư
và rủi ro đầu tư của nền kinh tế.
1.3 Quy đònh pháp luật về nhượng quyền thương mại trong luật Việt Nam và các
nước
1.3.1 Pháp luật về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
Trong thời gian đầu ra đời, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật hóa.
Năm 1998, lần đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 ra ngày 12/07/1999 hướng dẫn
thực hiện nghò đònh số 45/1998/ND-CP ngày 01/07/1998 của chính phủ quy đònh quy
đònh chi tiết về chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ “hợp đồng
cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng anh gọi là franchise…”. Tuy nhiên, franchise
lúc này chỉ được đề cập đến như một trong các nội dung nhỏ của hợp động chuyển
giao công nghệ, là hợp đồng với nội dung cấp li-xăng sử dụng nhãn hiệu hàng
hóakèm theo các bí quyết sản xuất, kinh doanh và được chuyển từ nước ngoài vào
Việt Nam chứ chưa có một khái niệm cụ thể và càng không công nhận franchise là
một mô hình kinh doanh.
Ngày 02/02/2005, Chính phủ ban hành Nghò đònh 11/2005/NĐ-CP sửa đổi những
quy đònh chi tiết về chuyển giao công nghệ, trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc
quyền kinh doanh cũng được xem là chuyển giao công nghệ, do đó chòu sự chòu sự
điều chỉnh của nghò đònh này. Tiếp đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005
quy đònh rằng hành vi cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng
chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, những đối tượng nào được chuyển giao là đối
tượng của sở hữu công nghiệp thì vẫn chòu sự chi phối của luật pháp về sở hữu trí tuệ.
Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hóa và công nhận. Luật thương
mại mới ra đời ngày 14/06/2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006) đã dành nguyên mục
8 Chương VI để quy đònh về hoạt động nhượng quyền thương mại. Tại điều 284 đến
291 nêu đònh nghóa về nhượng quyền thương mại, quyền và nghóa vụ của bên nhượng
quyền và nhận quyền, hợp đồng nhượng quyền đăng ký nhượng quyền.
Và sau đó không lâu, Chính Phủ ban hành nghò đònh 35/2006/NĐ-CP ngày
31/03/2006 quy đònh chi tiết luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại,
đến ngày 25/05/2006 thì Bộ Thương mại ban hành thông tư 09/2006/TT-BTM hướng
dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền giúp cho việc đăng ký hoạt động nhượng quyền
rõ ràng hơn. Đây chính là những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy đủ để
điều chỉnh và tạo điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét