danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác (là doanh
nghiệp kinh doanh có trụ sở chính ở nước ngoài) và được nhận phí uỷ thác.
- Năm là, nhận làm đại lý mua hàng cho doanh nghiệp nước ngoài. Theo đó,
bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh mình mua cho
bên giao cho bên giao đại lý để hưởng thù lao. Trong đó, bên đại lý là doanh nghiệp
có trụ sở chính ở Việt Nam còn bên giao đại lý là doanh nghiệp có trụ sở ở nước
ngoài. Việc nhận đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài là do Chính phủ quy định.
1.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
Nghiên cứu thị trường, lựa chọn thị trường, lựa chọn đối tác:
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh XNK là việc sử dụng các biện pháp
kỹ thuật nhằm giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ thông tin cần thiết để từ đó đưa
ra quyết định để đạt được mục đích kinh doanh.
Việc nghiên cứu thị trường giúp cho nhà kinh doanh nắm vững xu hướng
biến động của thị trường để giải quyết được những vấn đề thực tiễn cũng như khả
năng tiêu thụ và cạnh tranh của hàng hoá.
Nghiên cứu thị trường phải bao gồm cả việc nghiên cứu toàn bộ quá trình sản
xuất của một ngành sản xuất, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực
lưu thông mà cả lĩnh vực sản xuất. Cụ thể là phải biết được sản phẩm xuất khẩu có
phù hợp với thị trường thế giới và phù hợp với năng lực sản xuất hay không. Hay
nói cách khác, doanh nghiệp phải xác định được những vấn đề sau:
- Mặt hàng nào thị trường cần? Quy cách, mẫu mã, chủng loại như như thế
nào?
- Tập quán, thị hiếu của người tiêu dùng.
- Mặt hàng đang ở thời kỳ nào trong chu kỳ sống của sản phẩm.
- Nguồn hàng của doanh nghiệp.
SV: Lê Quốc Thắng
5
- Nghiên cứu tỷ suất ngoại tệ để lựa chọn mặt hàng kinh doanh (tỷ suất ngoại
tệ hàng xuất khẩu biểu thị lượng nội tệ chi để thu về một đơn vị ngoại tệ, nếu tỷ
suất ngoại tệ thấp hơn tỷ giá hối đoái thì doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả).
Trong quá trình nghiên cứu thị trường, cần xác định nhu cầu thật của khách
hàng, kể cả nhu cầu dự trữ, xu hướng biến động nhu cầu từng thời điểm của các
vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc biệt của nhu cầu cho từng khu vực, từng
lĩnh vực tiêu dùng. Đồng thời, phải nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao
gồm việc xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng sản xuất hàng hoá thay thế, khả
năng lựa chọn mua bán, các đối thủ cạnh tranh… đặc biệt là điều kiện chính trị, luật
pháp, tập quán, chính sách thương mại, điều kiện về tiền tệ và tín dụng của từng
quốc gia, từng khu vực để có thể hoà nhập thị trường nhanh và có hiệu quả.
Sau khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp có thể lựa chọn thị trường
truyền thống hoặc thị trường mới. Đối với thị trường truyền thống, điều thuận lợi
đối với doanh nghiệp là đã quen nhưng muốn duy trì thì doanh nghiệp phải không
ngừng cải tiến chất lượng, mẫu mã để nâng cao uy tín và tìm cách đưa hàng hoá
mới xâm nhập thị trường mới.
Trong kinh doanh XNK, các đối tác kinh doanh có thể là một hay nhiều
khách hàng và các đối tác này có ảnh hưởn trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trong quá trình lựa chọn đối tác, không nên căn cứ vài lời quảng cáo,
khuyếch trương, tự giới thiêu mà cần phải tìm hiểu, lựa chọn đối tác kinh doanh có
các điều kiện sau:
- Có lý lịch, địa chỉ rõ ràng, có uy tín trong kinh doanh.
- Có thực lực về tài chính.
- Có thiện chí trong quan hệ mua bán, không có biểu hiện hành vi lừa đảo.
- Đối tác làm ăn phát triển ổn định.
- Ngoài ra còn căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị của đất nước.
SV: Lê Quốc Thắng
6
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập
khẩu trực tiếp, hạn chế các trung gian (các trung gian chỉ thích hợp trong trường
hợp doanh nghiệp muốn xâm nhập vào thị trường mới).
Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường.
Nghiên cứu giá cả bao gồm việc nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng
thời điểm trên thị trường, xu hướng biến động giá cả trên thị trường và nhân tố ảnh
hưởng đến giá cả.
Trong mua bán quốc tế, việc mua bán diễn ra ở các khu vực khác nhau, hàng
hoá phải vận chuyển qua nhiều nước khác nhau nên giá cả thị trường càng trỏ nên
phức tạp. Để thích hợp với sự biến động của thị trường, các nhà kinh doanh xuất
khẩu phải thực hiện việcđịnh giá linh hoạt, phù hợp với mục đích cơ bản của doanh
nghiệp. Việc xác định giá bán phải dựa vào các căn cứ:
- Căn cứ vào giá thành sản xuất và các chi phí khác.
- Căn cứ vào giá mua hàng hoá cạnh tranh.
- Căn cứ vào nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng.
Nghiên cứu giá cả là vấn đề chiến lược quan trọng hàng đầu vì nó ảnh hưởng
trực tiếp đến sức tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu giá cả là khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải xem xét trên
nhiều khía cạnh. Việc xác định giá cả hợp lý sẽ đảm bảo cho kinh doanh tránh được
rủi ro và thua lỗ.
Lập phương án kinh doanh
Các doanh nghiệp tiến hành lập phương án kinh doanh căn cứ vào kết quả
thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường nhằm đạt được mục tiêu xác định.
Việc lập phương án kinh doanh bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, phác hoạ bức tranh tổng thể về hoạt động
kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh.
SV: Lê Quốc Thắng
7
- Đề ra mục tiêu cụ thể như: bán hàng cho ai, giá cả, khối lượng bao nhiêu…
để có thể đạt lợi nhuận cao nhất.
- Đề ra biện pháp thực hiện biện pháp để đạt được mục tiêu bao gồm: đầu tư
và sản xuất, cải tiến bao bì, quảng cáo…
- Đánh giá hiệu quả kinhtế của phương án thông qua các chỉ tiêu tỷ suất
ngoạitệ, tỷ suất doanh lợi, thời điểm hoà vốn, thời gian hoà vốn,…
Nghiên cứu về nguồn hàng xuất khẩu
Muốn khai thác và phát triển nguồn hàng, các đơn vị xuất khẩu phải nghiên
cứu nguồn hàng, qua đó ta có thể nắm bắt được khả năng cung cấp hàng của các
nhà cung cấp để khai thác và huy động cho xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng nhằm xác định mặt hàng dự kiến kinh doanh xuất
khẩu có phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của thị trường nước ngoài hay không?
Có thuộc hạn ngạch xuất khẩu hay không? Có được nước ngoài khuyến khích xuất
khẩu không?
Có hai phương pháp nghiên cứu nguồn hàng:
- Lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này, người ta
nghiên cứu tình hình khả năng sản xuất và tiêu thụ của từng mặt hàng và thường
làm phiếu theo dõi đối với từng mặt hàng. Dùng phương pháp này, ta có thể biết
được tình hình chung về khả năng sản xuất và nhu cầu xuất khẩu của từng mặt
hàng.
- Lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu: theo phương pháp này người ta
theo dõi năng lực sản xuất vầ khả năng đáp ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất
qua các chỉ tiêu: số lượng, chất lượng hàng cung cấp, giá thành.
Sau khi nghiên cứu nguồn hàng, các doanh nghiệp tổ chức quá trình thu mua
hàng hoá, có thể mua trực tiếp hoặc uỷ thác qua hệ thống đại lý.
Nghiên cứu về giao dịch và ký kết hợp đồng kinh tế
Nghiên cứu về giao dịch:
SV: Lê Quốc Thắng
8
Để tiến tới ký hợp đồng mua bán với nhau, người xuất khẩu và người nhập
khẩu thường phải qua quá trình giao dịch, thương lượng với nhau về các điều kiện
giao dịch. Trong buôn bán quốc tế, giao dịch được tiến hành qua những bước sau:
hỏi giá, phát giá, (chào hàng), đặt hàng, hoàn giá, chấp nhận. Trong đó, chào hàng
và đặt hàng được quan tâm hơn vì đó là cơ sở để dẫn đến hợp đồng
Điều quan trọng trong công tác giao dịch là cần phải tạo ra được mối quan hệ
tốt giữa người xuất khẩu với khách hàng. Mặc dù công việc làm ăn chịu ảnh hưởng
của hàng loạt những quy định, nhưng co đươc mối quan hệ và liên lạc mật thiết với
bạn hàng vẫn là điều quan trọng và luôn là yếu tố quyết định
Ký kết hợp đồng kinh tế
Việc giao dịch, đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới viêc ký kết hợp đồng
xuât khẩu. Quyền hạn và nghĩa vụ của từng bên phải được thể hiện trong hợp đông
Ở Việt Nam, hợp đồng kinh tế phải bắt buộc thể hiện bằng hình thức văn
bản, đay là hình thức tốt nhất để bảo vệquyền lợi cho cả hai bên. Khi ký kết hợp
đồng cần chú ý những điểm sau:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thoả
thuận, không mập mờ.
- Hợp đồng cần đề cập mọi vấn đề để tránh việc phải áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề với bên kia không đề cập đến. Trong họp đồng không
được có những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người bán và người
mua.
- Người ký kết phải thực sự có thẩm quyền ký kết
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng phải là thứ ngôn ngữ có hai bên đều dùng
hoặc có thể thoả thuận
Nghiên cứu về công tác nghiệp vụ tổ chức thực hiện hợp đồng:
SV: Lê Quốc Thắng
9
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu đã ký kết, đơn vị kinh doanh xuất khẩu
phải thực hiện hợp đồng mình đã ký. Việc tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Xin giấy phép xuất khẩu
Bước 2: Tiến hành kiểm tra nội dung
Bước 3: Chuẩn bị hàng hoá để giao. Bên xuất khẩu phải chuẩn bị hàng hoá
căn cứ theo đúng hợp đồng về số lượng, quy cách, ký mã hiệu. Bao bì phải phù hợp
với hàng hoá đảm bảo chuyên chở tới đích.
Bước 4: Kiểm tra hàng hoá
Bước 5: Nếu doanh nghiệp xuất khẩu bán theo điều kiện thì phải tiến hành
thuê tầu và mua bảo hiểm cho hàng hoá
Bước 6: Làm thủ tục hải quan
Bước 7: Giao hàng lên tầu
Bước 8: Làm thủ tục thanh toán
Bước9: Giải quyết khiếu nại nếu có
Thanh toán trong kinh doanh xuất khẩu:
Thanh toán là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá.
Thanh toán là một bước đảm bảo cho người xuất khẩu thu được tiền về và người
nhập khẩu nhân được hàng hoá. Có thể hiểu thanh toán trong kinh doanh thương
mại quốc tế là việc chi trả những khoản tiền tệ có liên quan đến nhập khẩu hàng
hoá đã được thoả thuận trong hợp đồng kinh tế
Trong quá trình thanh toán phải xem xét những vấn đề sau:
- Tỷ giá hối đoái
- Dòng tiền thanh toán
- Phương thức thanh toán
- Địa điểm thanh toán
- Thời hạn thanh toán
SV: Lê Quốc Thắng
10
Nghiên cứu phương pháp tổ chức và quản lý xuất khẩu:
Các nước trên thế giới đều coi trọng việc xuất khẩu. Các chính phủ đã có
nhiều biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu. Xuất khẩu là một công việc phức tạp gặp
nhiều khó khăn trong các lĩnh vực tài chính, giấy phép, kiểm soát ngoại tệ và chính
sách của chính phủ. Người làm công tác xuất khẩu phải thông thạo về các thủ tục
giấy tờ, nghiệp vụ, chính sách của các chính phủ, các hợp đồng mua bán, tập quán
quốc tế, chính sách hải quan
Tuy nhiên không phải lúc nào nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu. Nhà
nước quản lý xuất khẩu thông qua các công cụ chính sách: Giấy phép xuất khẩu,
thủ tục hải quan, hạn ngạch xuất khẩu, quản lý ngoại tệ. Vì vậy, khi tham gia xuất
khẩu, người xuất khẩu phải tìm hiểu kỹ các vấn đề như: thị trường xuất khẩu, tín
dụng, các biện pháp quản lý xuất khẩu của nhà nước…
1.Vai trò của xuất khẩu
Vai trò quan trọng của xuất khẩu trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân thể
hiện ở những mặt sau đây:
- Xuất khẩu là tiến trình tiêu thụ một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội ở thị
trường nước ngoài để thu ngoại tệ, nó tạo nên sức mạnh vật chất của nền ngoại
thương một nước, nếu không có sức mạnh đó chúng ta không thể có thế đứng vững
chắc trên thị trường quốc tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện để nền kinh tế quốc dân có thể sản xuất với quy mô
lớn hơn và đạt tới quy mô tối ưu trên cơ sở chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, tạo
thêm công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước
ngoài. Nhờ sản xuất với quy mô lớn nên có thể tạo thuận lợi cho đầu tư, cho việc
hiện đại hoá kỹ thuật và công nghệ, cho việc hợp lý hoá sản xuất, qua đó tăng năng
suất lao động và hạ giá thành sản phẩm.
SV: Lê Quốc Thắng
11
- Xuất khẩu thực chất là đưa chất lượng và trình độ kỹ thuật của sản phẩm
trong nước ta đọ sức với thị trường quốc tế, ở đây mọi sản phẩm đều gặp phải một
sự canh tranh của các công ty thuộc nhiều nước khác nhau. Thông qua xuất khẩu có
thể tự khẳng định mình và học hỏi được nhiều kinh nghiệm và trình độ quốc tế,
đặc biệt là trình độ kỹ thuật và công nghệ của các nước phát triển. Đồng thời đòi
hỏi phải phấn đấu hạ giá thành các sản phẩm để có thể cạnh tranh được với giá cả
quốc tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện vật chất không những cho hoạt động ngoại thương
mà còn cho việc tạo lập các mặt cân đối khác của nền kinh tế quốc dân như thanh
toán trả nợ, ổn định sức mua của đồng tiền trong nước,… Đồng thời thông qua xuất
khẩu có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện một chính sách ngoại giao
chủ động và tích cực.
Nói tóm lại, xuất khẩu không chỉ là hình thức trao đổi hàng hoá tiền tệ mà
còn tác động đến nền kinh tế quốc dân và sự hội nhập của đất nước vào thị trường
quốc tế. Do đó chúng ta cần phải có chiến lược rõ ràng về xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu có vai trò hết sức quan trọng cho việc bảo đảm sức chủ
động trong hoạt động ngoại thương của nước ta, đặc biệt trong giai đoạn thực hiện
chính sách mở cửa, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước.
Những phân tích sâu về vai trò của xuất khẩu sẽ cho ta thấy rõ hơn về tác động của
xuất khẩu tới nền kinh tế quốc dân Việt Nam.
Đối với việc phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo
hướng CNH-HĐH.
Để có thể xuất khẩu, điều đầu tiên là phải lựa chọn mặt hàng, tổ chức lại sản
xuất, áp dụng công nghệ thích hợp, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng
và hạ giá thành sản phẩm, đưa nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao.
SV: Lê Quốc Thắng
12
Kể từ sau năm 1985, nước ta thực hiện chính sách mở cửa theo tinh thần
nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7, quy mô xuất khẩu tăng
trung bình 20%/năm. chính điều này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế trong
nước ngày càng cao. Trong 5 năm 1991-1995, đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân 8,2%/năm. Nhờ có việc mở rộng xuất khẩu mà nhiều ngành nghề truyền
thống được phục hồi và phát triển lên một bước cao hơn, một số ngành và sản
phẩm mới hình thành và mở rộng quy mô, ví dụ như ngành dệt may, gốm sứ, lắp
ráp điện tử, môi trường thuỷ sản phát triển cây công nghiệp như: cao su, chè, cà
phê,…
Cùng với việc thay thế nhập khẩu, ở Việt Nam đã thúc đẩy việc mở rộng các
mặt hàng mới, áp dụng công nghệ mới, đưa tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.
Đối với vấn đề giải quyết việc làm, mở rộng phân công lao động
Hoạt động XNK đã góp phần quan trọng vào việc tạo nên việc làm, chẳng
hạn như phát triển sản phẩm có hàm lượng lao động cao như dệt may, thủ công mỹ
nghệ, hàng nông sản,…
Việc xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung cũng thu hút
nhiều lao động cho việc sản xuất ra hàng hoá để xuất khẩu cũng như hàng hoá thay
thế nhập khẩu. Điều này đã tạo nên những việc làm mới, những nghề mới giúp tăng
thêm thu nhập, nâng cao tay nghề và bổ túc thêm trình độ chuyên môn cho người
lao động, đồng thời tạo ra khả năng cho nền kinh tế nước ta tham gia mạnh mẽ vào
phân công lao động quốc tế.
Đối với nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
Trong điều kiện cơ chế kế hoạch tập trung, mức tích luỹ thấp, giao lưu với
nước ngoài hạn hẹp nên trình độ công nghệ của nước ta thường lạc hậu vài ba thế
hệ so với các quốc gia có trình độ phát triển trên thế giới. Nếu điều đó vẫn giữ
SV: Lê Quốc Thắng
13
nguyên hiện trạng thì chúng ta sẽ bị tụt hậucả về tốc độ tăng trưởng và trình độ
khoa học công nghệ.
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, không những tạo điều kiện thuận lợi
cho xuất khẩu mà cả cho hoạt động nhập khẩu đã tạo ra khả năng khắc phục dần sự
lạc hậu về mặt công nghệ. Phải nhấn mạnh rằng, đây là một quá trình lâu dài, đòi
hỏi thời gian nhất định và bước đi cần thiết. Hoạt động xuất khẩu tác động đến việc
nâng cao trình độ công nghệ thông qua nhiều con đường khác nhau:
- Bản thân việc mở rộng xuất khẩu đòi hỏi phải áp dụng nhanh chóng và đổi
mới thường xuyên công nghệ để nâng cao chất lượng hàng hoá.
- Thông qua xuất khẩu chúng ta có thể thu được ngoại tệ, tạo ra khả năng
nhập khẩu các công nghệ thích hợp và công nghệ tiên tiến.
- Việc mở rộng xuất khẩu đòi hỏi và cho phép mở rộng đầu tư nước ngoài,
thông qua đó mà việc đổi mới công nghệ diễn diễn ra với tốc độ cao hơn.
Đối với hoạt động nhập khẩu
Xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của hoạt động ngoại thương của một quốc
gia. Giữa chúng có một mối quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề cho nhau và cùng thúc
đẩy nhau phát triển. Tuy nhiên, việc nhận thức về mối quan hệ này phải trải qua
một quá trình lau dài, gắn với những đòi hỏi của thực tiễn khách quan.
Trong thời kỳ của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhấn mạnh vai trò của
xuất khẩu và xem nhẹ vai trò của xuất khẩu. Vì vậy trong thời kỳ này thường chủ
trương tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu sao cho đạt tới thặng dư tối đa
giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Thời kỳ cuối của công nghiệp trọng thương, người ta
đã nhận thức rõ hơn một phần mối quan hệ biện chứng giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, tức là tăng cường nhập khẩu để phục vụ cho việc mở rộng xuất khẩu.
Trong điều kiện thế giới ngày nay, trình độ mở cửa của mỗi quốc gia thị
trường thế giới ngày càng cao, sự tham gia vào phân công lao động quốc tế phát
SV: Lê Quốc Thắng
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét