CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ BAO THANH
TOÁN XUẤT KHẨU
1.1
Khái niệm và chức năng của Bao thanh tốn (BTT)
1.1.1 Khái niệm:
Với tên đề tài là Bao thanh tốn xuất khẩu, thì khái niệm được tìm hiểu lẽ
ra phải là Bao thanh tốn xuất khẩu là gì? Tuy nhiên, theo các ấn bản của nhiều tổ
chức lớn thì người ta chủ yếu là đưa ra khái niệm Bao thanh tốn là gì? Còn Bao
thanh tốn xuất khẩu chỉ là một mảng của Bao thanh tốn quốc tế (trong mối
tương quan so sánh với Bao thanh tốn trong nước). Vì thế, cách tiếp cận của bài
viết này sẽ đi từ các khái niệm về sản phẩm bao thanh tốn. Sau đó, sẽ làm rõ bao
thanh tốn xuất khẩu thơng qua phần phân loại trong mục tiếp theo.
* Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu về bao thanh tốn thơng qua một định nghĩa
của Cơng ước Bao thanh tốn quốc tế UNIDROIT (Kí tại Ottawa, ngày 28 tháng 5
năm 1988). Theo điều 1, khoản 2 cơng ước UNIDROIT này thì:
“Theo mục tiêu của Cơng ước này, “một hợp đồng bao thanh tốn” có
nghĩa là một hợp đồng bao gồm một bên là bên cung cấp hàng và một bên là bên
bao thanh tốn, hai bên tn thủ theo các nội dung sau:
(a) người bán hàng có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho nhà bao thanh tốn
khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa giữa bên bán hàng và
khách hàng của bên bán (còn gọi là con nợ), chứ khơng phải là những người mua
hàng để sử dụng cho cá nhân và hộ gia đình.
(b) bên bao thanh tốn phải thực hiện ít nhất hai chức năng sau:
Tài trợ cho người bán, bao gồm khoản vay và khoản ứng trước.
Theo dõi cơng nợ (giữ sổ cái) liên quan đến khoản phải thu.
5
Thu tiền từ các khoản phải thu
Bảo vệ người bán trước trường hợp người mua khơng thanh tốn.
(c) thơng báo chuyển nhượng phải được đưa ra bằng văn bản cho con nợ
biết.”
Đoạn văn bản luật ở trên khơng nêu rõ bao thanh tốn là gì mà chỉ nêu định
nghĩa một hợp đồng bao thanh tốn. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu về bao
thanh tốn thơng qua khái niệm này. Có thể suy ra khái niệm bao thanh tốn từ
khái niệm trên là: Bao thanh tốn là dịch vụ do nhà bao thanh tốn cung cấp dựa
trên hợp đồng mua bán có thực giữa hai bên mua – bán. Và nhà bao thanh tốn
phải thực hiện ít nhất là hai trong bốn chức năng đề cập ở trên thì mới được cơng
nhận vai trò của mình.
* Một khái niệm bao thanh tốn khác của một Tổ chức Bao thanh tốn quốc
tế (FCI – Factors Chain International) nữa có nội dung như sau:
“Một hợp đồng bao thanh tốn có nghĩa là một hợp đồng mà nó tn theo
điều sau: người bán hàng có thể hoặc sẽ chuyển nhượng khoản phải thu cho nhà
bao thanh tốn, vì mục đích là để nhận khoản tài trợ hay khơng, nhưng tốt thiểu là
phải có một trong các chức năng sau:
Quản trị sổ cái các khoản phải thu
Thu tiền từ các khoản phải thu
Bảo vệ chống lại các khoản nợ xấu”
(Phần 1, điều 1, Qui định chung về Bao thanh tốn quốc tế (GRIF), phiên
bản tháng 6, 2005)
Qua định nghĩa này, ta thấy có một sự kế thừa từ UNIDROIT. Tuy nhiên,
có một điều khác biệt là GRIF khơng coi chức năng tài trợ ứng trước là quan
trọng. Mà GRIF chỉ nói đến 3 chức năng còn lại (dù diễn đạt có khác hơn). Điều
này có thể được giải thích theo cách sau. Bởi vì chức năng tài trợ ứng trước là một
6
điều tất yếu mà nếu các nhà bao thanh tốn khơng cung cấp thì sẽ tạo ra thiệt thòi
cho bản thân họ. Vì rõ ràng, nếu tài trợ ứng trước thì nhà BTT sẽ thu được tiền lãi
từ khoản ứng trước. Nên đây là một chức năng là nhà BTT muốn làm, trong khi
người bán chưa chắc là muốn làm nếu họ là một doanh nghiệp có đủ vốn tài trợ
cho sản xuất kinh doanh.
Để hiểu về bao thanh tốn tại Việt Nam áp dụng thế nào, chúng ta sẽ khảo
sát Chương 1, điều 2, Qui chế hoạt động bao thanh tốn của các tổ chức tín dụng
1096/2004/QD-NHNN: ”Bao thanh tốn là một hình thức cấp tín dụng của tổ
chức tín dụng cho bên bán hàng thơng qua việc mua lại các khoản phải thu
phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng
thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa”.
Khái niệm này đề cập chủ yếu đến vấn đề cấp tín dụng, và khơng thấy đề
cập đến các vai trò khác của ngân hàng khi thực hiện bao thanh tốn. Rõ ràng
chúng ta thấy được sự khác biệt khá lớn giữa khái niệm bao thanh tốn của qui chế
trong nước và Cơng ước quốc tế (và Qui định chung về bao thanh tốn quốc tế).
Điều này cũng khơng có gì là q khó hiểu. Bởi lẽ, trong điều kiện Việt Nam hiện
nay, nguồn vốn là yếu tố sống còn, do các doanh nghiệp trong nước còn bé nhỏ.
Ngồi ra, qua định nghĩa, chúng ta cũng thấy rõ tâm lí người Việt chưa thấy hết
được tầm quan trọng của việc quản trị khoản phải thu, hoặc bảo hiểm các rủi ro tín
dụng.
Nói tóm lại, có nhiều cách định nghĩa khác nhau, bởi lẽ mỗi quốc gia có
ngơn ngữ riêng, có tập qn, luật lệ và nhu cầu tài chính và kinh doanh riêng biệt
nên việc sản phẩm BTT ra đời sẽ đáp ứng các nhu cầu ấy trên cơ sở luật lệ và tập
qn đặc thù, nhưng nhìn chung bao thanh toán được hiểu là sự chuyển nhượng
7
nợ của người mua hàng (con nợ) từ người bán hay cung ứng dòch vụ (chủ nợ cũ)
sang đơn vò bao thanh toán (chủ nợ mới). Đơn vò bao thanh toán đảm bảo việc
thu nợ, tránh các rủi ro không trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ của người
mua. Đơn vò bao thanh toán có thể trả trước toàn bộ hay một phần các khoản
nợ của người mua cùng với một khoản hoa hồng tài trợ và phí thu nợ. Mọi rủi
ro không thu được tiền hàng đều do người tài trợ gánh chòu
1.1.2
Chức năng:
Chức năng của bao thanh tốn đã nằm gói gọn trong phần định nghĩa bao
thanh tốn đã trình bày trong phần trên. Đó là bốn chức năng: Bảo hiểm tín dụng
(Credit Cover), Tài trợ/ứng trước (Finance), Quản trị khoản phải thu (Account
Receivable Administration) và Thu tiền (Collection). Cách tiếp cận bốn chức năng
này như sau: tìm hiểu nội dung của bốn chức năng, và bốn chức năng ấy có ích lợi
thế nào với doanh nghiệp.
Đầu tiên là chức năng bảo hiểm tín dụng. Với chức năng này, người bán sẽ
được đảm bảo là nhà bao thanh tốn sẽ trả cho người bán 100% giá trị khoản phải
thu đã được bảo hiểm trong các trường hợp sau. Trường hợp 1, người mua khơng
có khả năng thanh tốn. Trường hợp 2, khoản phải thu q 90 ngày kể từ ngày đáo
hạn của hóa đơn. Tuy nhiên, trong trường hợp 2 này, thời gian nhà BTT thanh
tốn cho người bán có thể khác nhau do sự thỏa thuận trước, nhưng thường thì nhà
BTT cam kết là sẽ thanh tốn nếu người mua mất khả năng thanh tốn.
Vấn đề ở đây là, thế nào là một khoản phải thu được bảo hiểm? Có thể
giải thích như sau: Khi nhà bao thanh tốn cấp cho người mua hàng một hạn mức
tín dụng (mục đích là để thanh tốn tiền hàng), khi người mua kí hợp đồng mua
bán hàng hóa với người bán, thì giá trị khoản phải thu sẽ phải nhỏ hơn hoặc
8
bằng hạn mức còn lại của người mua. Lúc này, nếu khơng có tranh chấp giữa
người mua và người bán thì khoản phải thu ấy được gọi là khoản phải thu được
bảo hiểm. Tuy nhiên, nên lưu ý một điều rằng, nếu khoản phải thu có giá trị lớn
hơn hạn mức còn lại của người mua thì giao dịch mua bán vẫn diễn ra bình
thường, chỉ có điều là, giá trị khoản phải thu tăng thêm sẽ khơng được nhà BTT
bảo hiểm (tức là sẽ khơng thanh tốn nếu người mua mất khả năng thanh tốn
hoặc khơng thanh tốn trong thời gian 90 ngày).
Chức năng này mang lại cho doanh nghiệp các lợi ích sau. Một là, khoản
phải thu được bảo hiểm và khơng có tranh chấp sẽ được thanh tốn trong thời gian
sau 90 ngày kể từ ngày đáo hạn của hóa đơn. Hai là, loại bỏ tổn thất do các khoản
nợ xấu. Cuối cùng là, người bán có thể có được sự đánh giá của chun gia về tư
cách tín dụng của người mua.
Thứ hai, đó là chức năng tài trợ/ứng trước. Với chức năng này, nhà BTT
cam kết là sẽ ứng trước cho người bán số tiền với một tỉ lệ khoảng 70-80% giá trị
khoản phải thu được phê chuẩn. Khi khoản phải thu đuợc thanh tốn thì người bán
sẽ nhận tiếp số tiền còn lại sau khi trừ đi phí và lãi.
Nhờ chức năng này mà người bán khơng phải đợi đến hết thời gian bán
chịu mà vẫn có thêm tiền để bổ sung vốn lưu động. Mà trong điều kiện hiện nay,
vốn lưu động ổn định sẽ giúp doanh nghiệp phát triển nhanh chóng.
Những thuận lợi mà chức năng này mang lại cho doanh nghiệp có thể tóm
gọn trong mấy ý sau. Một là, cung cấp thêm một khoản vốn lưu động bằng tiền để
tài trợ cho việc mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Hai là, có thể được ngân hàng
tài trợ số tiền nhiều hơn là vay truyền thống. Vì số tiền tài trợ phụ thuộc vào giá trị
khoản phải thu, và nếu khoản phải thu lớn thì nhận được số tiền lớn hơn. Ba là,
nếu có tiền thì doanh nghiệp bán hàng có thể trả tiền hàng cho nhà cung cấp hàng
đúng hẹn. Như vậy thì uy tín của doanh nghiệp bán hàng có thể tăng lên. Bốn là,
9
chủ doanh nghiệp sẽ khơng bị mất quyền kiểm sốt doanh nghiệp. Có thể giải
thích như sau, doanh nghiệp sẽ khơng phải đi tìm thêm vốn từ cổ đơng bên ngồi
khi thiếu vốn, bởi vì, nếu vay vốn qua huy động cổ đơng thì chủ doanh nghiệp sẽ
mất quyền kiểm sốt cơng ty. Cuối cùng là doanh nghiệp có thể bổ sung các quĩ
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển doanh nghiệp.
Thứ ba, về quản trị các khoản phải thu, nhà BTT sẽ quản lí hóa đơn, các
giấy nhận nợ và các khoản thanh tốn liên quan đến người mua. Khi thích hợp thì
nhà BTT sẽ gởi thơng báo cho người mua để thơng tin cho người mua về việc
người bán đã chuyển nhượng khoản phải thu cho nhà BTT. Và người mua phải
thanh tốn tiền cho nhà BTT. Người bán sẽ nhận các báo cáo hàng kì về tình trạng
của sổ quản lí các khoản phải thu. Điều này sẽ giúp người bán biết được đầy đủ về
việc thanh tốn của người mua.
Chức năng này mang lại cho người bán một số lợi ích sau. Một là, tiết kiệm
được chi phí nhân sự cho doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghịêp đang phát
triển mạnh. Các doanh nghiệp này có khoản phải thu gia tăng rất nhanh, để quản lí
khoản phải thu họ phải th thêm nhân viên. Bao thanh tốn sẽ giúp họ giảm bớt
số nhân viên khơng cần thiết. Hai là, giảm các chi phí cố định như: chi phí bưu
điện, chi phí điện thoại, fax, di chuyển Vì để thu được tiền thì doanh nghiệp
phải tốn những chi phí này, đây thực sự là một khoản tiền khơng nhỏ. Cuối cùng,
đó là việc tiết giảm thời gian quản lí, và doanh nghiệp có thể tập trung vào quản lí
những cơng việc có ích khác.
Thứ tư, và cũng là chức năng sau cùng, đó là thu tiền. Một trong những
vấn đề trong việc sử dụng phương thức thanh tốn mở sổ (Open Account) là người
mua khơng có thanh tốn cho người bán khi chưa nhận được hàng hóa. Và nhà
BTT sẽ giúp giải quyết điều này bằng cách thay doanh nghiệp đi đòi nợ nếu người
mua khơng trả.
10
Với chức năng này, người bán sẽ có thể tập trung vào cơng việc chính của
mình là sản xuất và bán hàng, thay vì phải tốn thời gian thu tiền hàng đã bán. Và
người bán hàng cũng có thể “ẩn mình” đằng sau nhà BTT, để tránh ảnh hưởng xấu
trong trường hợp người mua hàng khơng thanh tốn. Thêm vào đó, việc thu tiền
của nhà BTT sẽ nhanh hơn vì họ chun nghiệp hơn. Chính vì nhanh hơn nên sẽ
tạo ra ít chi phí tài chính hơn. (Vì vốn ln có chi phí cơ hội, cũng như là trả lãi
vay).
Với bốn chức năng trên, chúng ta phần nào thấy được sự tích cực của sản
phẩm bao thanh tốn. Tuy nhiên, khơng phải sản phẩm BTT nào cũng có đầy đủ
bốn chức năng ấy, mà điều đó còn tùy thuộc vào loại sản phẩm BTT mà nhà BTT
cung cấp. Chúng ta sẽ làm rõ điều này trong phần tiếp theo:
1.2
Các loại bao thanh tốn:
Theo phân loại của Tổ chức Bao thanh tốn quốc tế (FCI) thì có 8 loại sản
phẩm bao thanh tốn. Chúng ta sẽ tiếp cận tám sản phẩm này theo hướng sau. Đầu
tiên là giới thiệu về sản phẩm, rồi nói đến thuận lợi và bất lợi của sản phẩm. Thuận
lợi và bất lợi này khơng chỉ nói tới doanh nghiệp mà còn nói tới nhà BTT.
1.2.1
Bao thanh tốn cung cấp đầy đủ dịch vụ (Full service
Factoring):
Như thể hiện trong tên gọi, loại BTT này cung cấp đầy đủ 4 chức năng của
BTT, và người mua sẽ được thơng báo về việc chuyển nhượng khoản phải thu.
Với hình thức này, nhà BTT sẽ đảm nhận sổ cái (quản lí các khoản phải thu) của
người bán, và người bán lúc này chỉ có một con nợ duy nhất là nhà BTT. Và kiểu
BTT này theo lí thuyết thì thuộc dạng khơng có truy đòi, nhưng thực tế thì vẫn có
hình thức truy đòi.
Sản phẩm này có thuận lợi như sau: Sản phẩm này thích hợp cho những
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì, các doanh nghiệp này khơng những cần sự hỗ
11
trợ về vốn mà còn cần sự giúp đỡ về mặt quản trị (quản lí cơng nợ), thêm vào đó,
họ cũng cần một sự bảo vệ trước các rủi ro có thể gặp phải. Tuy nhiên, nó cũng
thích hợp cho các doanh nghiệp lớn trong trường hợp các doanh nghiệp này muốn
thâm nhập một thị trường xuất khẩu mới. Sản phẩm này có bất lợi cho nhà BTT ở
chỗ, chỉ có những nhà BTT có kinh nghiệm lâu năm mới thực hiện được.
1.2.2
Bao thanh tốn truy đòi (Recourse Factoring):
Hình thức này chính là BTT đầy đủ nhưng bỏ đi chức năng bảo hiểm rủi ro
tín dụng. Tức là, khi người mua khơng thanh tốn hoặc mất khả năng thanh tốn
thì nhà BTT sẽ truy đòi người bán. Tùy quốc gia, có nơi thì xem BTT có truy đòi
là một kiểu cho vay trên bảo đảm là khoản phải thu, có nơi lại xem là một sự mua
lại khoản phải thu mặc cho nó có chứa yếu tố truy đòi.
Sản phẩm này phù hợp cho người bán hàng khơng cần đến sự bảo hiểm rủi
ro tín dụng của nhà BTT (do xem xét giá cả thấy khơng phù hợp nên họ đã mua
hảo hiểm trực tiếp với cơng ty bảo hiểm rủi ro tín dụng). Ngồi ra, những đơn vị
BTT mới nên tung ra sản phẩm này, vì họ chưa có kinh nghiệm trong việc quản lí
rủi ro tín dụng.
1.2.3
Bao thanh tốn khơng thơng báo (Non – Notification Factoring):
Sản phẩm này đơi khi còn được gọi là Chiết khấu hóa đơn hoặc BTT “kín”.
Thơng thường, sản phẩm này chỉ cung cấp một khoản ứng trước/tài trợ cho người
bán, tuy nhiên, cũng có khi nhà BTT cung cấp bảo hiểm rủi ro tín dụng. Với sản
phẩm này, khoản phải thu được chuyển nhượng cho nhà BTT trong khi người mua
khơng hề được thơng báo về việc này. Người bán sẽ thu tiền từ khoản phải thu và
thanh tốn tiền cho nhà BTT. Thơng thường sản phẩm này đi kèm với tiêu chí “có
truy đòi”, tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà BTT cung cấp sản phẩm “miễn truy
đòi”.
12
Sản phẩm này thích hợp cho những người bán hàng có qui mơ lớn và ln
cần tiền để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động. Với sản phẩm này, nhà BTT phải có
kĩ năng và “bí quyết” (know-how) trong việc quản trị rủi ro. Nhà BTT phải biết
chọn người bán hàng phù hợp để sau này còn thu được tiền từ người bán.
1.2.4
Bao thanh tốn đến hạn (Maturity Factoring):
BTT đến hạn hay còn được gọi là BTT thu tiền. Cái tên cũng nói lên mục
đích chính của sản phẩm này là giúp người bán thu tiền chứ khơng phải là ứng
trước/tài trợ tiền cho người bán. Với sản phẩm này, sau khi mua lại khoản phải
thu, nhà BTT sẽ phải thanh tốn cho người bán số tiền hàng theo mức bảo hiểm tín
dụng đã cấp (nhưng với điều kiện giữa người mua và người bán khơng có tranh
chấp) trong thời gian thỏa thuận trước (ví dụ là 60 ngày sau ngày đáo hạn của hóa
đơn).
Với sản phẩm này, người bán hàng phải có những nguồn khác để tài trợ cho
hoạt động kinh doanh của mình, điều cần nhất của người bán là thu được tiền và
giảm chi phí thu tiền hàng. Trong khi, nhà BTT phải chịu rủi ro là có khả năng
người mua khơng thanh tốn được hoặc khơng thanh tốn (do nhà BTT khơng
đánh giá hết được rủi ro tín dụng của người mua).
1.2.5
Hệ thống bao thanh tốn quốc tế gồm 2 nhà BTT (Đây là loại
hình bao thanh tốn xuất khẩu mà chúng ta quan tâm và cần làm rõ) – (The
two-factor System):
Xuất khẩu ngày càng phát triển và thị trường xuất khẩu của một quốc gia
khơng chỉ là một quốc gia khác mà bao gồm nhiều nước. Chính vì thế, nếu một
nhà BTT trong nước muốn phục vụ khách hàng của mình thì họ khơng thể mở chi
nhánh tại tất cả các thị trường nhập khẩu. Vì làm điều này rất tốn kém và khơng
hiệu quả (do nhà BTT trong nước sẽ khơng am hiểu thị trường, pháp luật và các
tập qn của nước ngồi). Để khắc phục điều này, Tổ chức Bao thanh tốn quốc tế
13
(FCI) đã ra đời và kéo theo sự hình thành của Hệ thống BTT quốc tế gồm 2 nhà
BTT (có sách gọi là BTT hai nhà đại lý). Hệ thống này gồm 1 nhà BTT tại nước
xuất (gọi là Export Factor - từ nay gọi tắt là EF) và một nhà BTT tại nước nhập
(gọi là Import Factor - từ nay gọi là IF). Hai nhà BTT này có quan hệ với nhau
thơng qua một hợp đồng (gọi là Interfactor Agreement). Mỗi nhà BTT sẽ tận dụng
sự hiểu biết về địa phương để thực hiện nhiệm vụ của mình cho tốt. Cụ thể là EF
sẽ chịu trách nhiệm về người bán. EF sẽ tài trợ cho người bán và cung cấp dịch vụ
quản trị khoản phải thu. (giữa EF và người bán có một hợp đồng gọi là Hợp đồng
Bao thanh tốn). Trong khi, IF chịu trách nhiệm về người mua. IF sẽ cấp hạn mức
tín dụng cho người mua và thu tiền từ hóa đơn đáo hạn.
Sau đây bài viết sẽ giới thiệu một số thuận lợi và hạn chế của Hệ thống
BTT gồm 2 nhà BTT. Để từ đó, chúng ta có thể thấy rằng đây là một hệ thống rất
phù hợp với Việt Nam.
Đầu tiên là thuận lợi cho người bán hàng: bảo hiểm rủi ro tín dụng, chỉ cần
tiếp xúc với EF trong nước nên giao tiếp cũng thuận lợi, nhà BTT sẽ lọc lại các
khoản nợ có vấn đề và tiến hành đòi tiền người mua vì thế người bán khơng làm
ảnh hưởng xấu đến quan hệ mua bán giữa hai bên mua – bán. Ngồi ra, người bán
khơng cần thơng thạo luật hoặc tập qn nước ngồi vì đã có IF hỗ trợ. Thêm vào
đó, thơng qua EF và IF, người bán có những thơng tin về người mua, về thịt
trường và về tập qn thương mại. Cuối cùng là chi phí cho phương thức mở sổ
cũng rẻ hơn phương thức khác (như L/C).
Thứ hai là thuận lợi cho người mua: có thể giao tiếp bằng ngơn ngữ của
mình, có thể thanh tốn theo cách tiện nhất (nhanh và rẻ), và có thể sử dụng
phương thức mở sổ.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét