Khoá luận tốt nghiệp
-5-
3. Bảo mật, an toàn 20
4. Hệ thống thanh toán tài chính tự động 21
5. Bảo vệ sở hữu trí tuệ 22
6. Bảo vệ người tiêu dùng 22
7. Tác động văn hoá xã hội của Internet 23
8. Hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý 24
9. Vấn đề lệ thuộc công nghệ 27
Chương II : Thực trạng thương mại điện tử Việt Nam
29
I. Tình hình về hạ tầng cơ sở cho thương mại điện tử ở Việt Nam 29
1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin 29
2. Hạ tầng cơ sở nhân lực 33
3. Hạ tầng cơ sở kinh tế 37
4. Hạ tầng pháp lý 39
5. Hạ tầng cơ sở chính trị xã hội 40
II. Các hoạt động liên quan đến thương mại điệ
n tử ở Việt Nam 41
1. Tình hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong những năm gần đây
41
2. Triển vọng tương lai 47
Chương III: Hệ thống giải pháp phát triển thương mại điện tử nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt nam đến năm
2020
50
I. Quan điểm, chủ trương và mục tiêu phát triển thương mại điện tử tại Việt nam trong
điều kiện hội nhập 50
1. Quan điểm phát triển thương mại điện tử tại Việt nam trong điều kiện hội nhập
50
2. Chủ trương 52
3. Mục tiêu 53
Khoá luận tốt nghiệp
-6-
II. Hệ thống các giải pháp đẩy nhanh sự phát triển của thương mại điện tử ở Việt Nam
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập
53
1. Các giải pháp vĩ mô ở tầm quốc gia 55
2. Các giải pháp vi mô ở cấp độ doanh nghiệp 66
Phần phụ lục
Tình hình thương mại điện tử trên thế giới và một số khu vực, quốc gia.
Tài liệu tham khảo
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. KHÁI NIỆM VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.
Sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã đưa tới cuộc “cách mạng số
hoá”, thúc đẩy sự ra đời của “kinh tế số hoá”, và “xã hội thông tin” mà thương
mại điện tử là một bộ phận hợp thành. Thương mại điện tử là việc sử dụng các
Khoá luận tốt nghiệp
-7-
phương pháp điện tử để làm thương mại, trong đó “thương mại” (commerce)
không phải chỉ là buôn bán hàng hoá dịch vụ (trade), mà - như được các nước
thành viên Liên hợp quốc thoả thuận- bao gồm hầu như tất cả các dạng hoạt động
kinh tế, và việc chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi toàn bộ
hình thái hoạt động của xã hội.
1. Số hoá và nề
n kinh tế số hoá.
Cho tới đầu thế kỷ này, để liên lạc với nhau, người ta sử dụng các hệ thống
ký hiệu như âm thanh, hình ảnh, và chữ viết. Trong nửa đầu thế kỷ, kỹ thuật số
(digital technique) trên cơ sở hệ nhị phân ( binary system, dùng hai chữ số, 0 và
1; mỗi số đó gọi là 1 bit, 8 bit gọi là một byte, biểu diễn điện tử tương ứng của
hai ấy là “mạ
ch mở” và “mạch đóng”) bắt đầu phát triển và hoàn thiện dần. Hình
ảnh (kể cả chữ viết, con số, các ký hiệu khác), và âm thanh đều được số hoá
thành các nhóm bit điện tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, truyền đi và
đọc bằng điện tử, tất cả đều với tốc độ ánh sáng (300 nghìn km/giây).
Kỹ thuật số được áp dụng trước hết vào máy tính điện t
ử, tiếp đó sang các
lĩnh vực khác (cho tới điện thoại di động, thẻ tín dụng v.v.). Việc áp dụng các kỹ
thuật số có thể được gọi là một cuộc Cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại,
gọi là cuộc cách mạng số hoá ( digital revolution), mở ra “kỷ nguyên số hoá”
(Digital Age).
Cách mạng số hoá diễn ra với tốc độ rất cao. Trong bối cảnh ấy, hoạt động
kinh tế
nói chung và thương mại nói riêng (kể cả khâu quản lý) cũng chuyển sang
dạng “số hoá”, “điện tử hoá”; khái niệm “thương mại điện tử” dần dần hình
thành, và ứng dụng “thương mại điện tử” ngày càng mở rộng.
2. Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử là một trong những lĩnh vực tương đối mới, ngay tên
gọi cũ
ng có nhiều: có thể gọi là “thương mại trực tuyến” (online trade) (còn gọi
là “thương mại tại tuyến”), “thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh
doanh điện tử” (electronic business), “thương mại không có giấy tờ” (paperless
Khoá luận tốt nghiệp
-8-
commerce hoặc paperless trade) v v; gần đây “thương mại điện tử” (electronic
commerce) được sử dụng nhiều và trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản
pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu
với cùng một nội dung.
Theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất và đã được chấp nhận phổ biến,
thì thương mại điển tử
là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương
mại. Nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần in ra giấy trong bất
kỳ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Trong định nghĩa trên đây, “thông tin” (information) không được hiểu theo
nghĩa hẹp là “tin tức”, mà là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ
thuật điện tử, bao
gồm cả thư từ, các tệp văn bản (text-based file), các cơ sở dữ liệu (database), các
bản tính (spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (computer-aid
design: CAD), các hình đồ hoạ (graphical image), quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng,
hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động (video image), âm thanh v.v.
Cần chú ý rằng, chữ “thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử”
(electronic commerce) cần được hi
ểu như cách diễn đạt sau đây của Uỷ ban Liên
hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong Đạo luật mẫu vầ thương
mại điện tử do Uỷ ban này thảo ra và đã được Liên hiệp quốc thông qua:
Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các
vấn đề nảy sinh ra từ mọi mố
i quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay
không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng
không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào
về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing);
xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư
; cấp
vốn; ngân hàng; thoả thuận khai thác; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô
nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
Khoá luận tốt nghiệp
-9-
doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt hoặc đường bộ.
Như vậy, “thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” (electronic
commerce) không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) theo cách hiểu
thông thường, mà bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, do đó việc áp dụng
thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các
hoạt độ
ng kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử có tới trên 1300
lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) chỉ là một lĩnh
vực ứng dụng.
3. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại của thương mại điện tử.
- Điện thoại:
Điện thoại là một phương tiện phổ thông, dễ sử dụng, và thường m
ở đầu cho
các cuộc giao dịch thương mại. Một số loại dịch vụ có thể cung cấp trực tiếp của
điện thoại (như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí); với sự phát
triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng dụng của điện thoại đang và
sẽ trở nên r
ộng rãi hơn.
Tuy nhiên, trên quan điểm kinh doanh, công cụ điện thoại có mặt hạn chế là
chỉ truyền tải được mọi cuộc giao dịch cuối cùng cũng phải kết thúc bằng giấy tờ.
Ngoài ra, chi phí giao dịch điện thoại, nhất là điện thoại đường dài và điện thoại
ngoài nước vẫn còn cao.
- Máy điện báo (Telex) và máy Fax:
Máy fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gử
i công văn truyền thống, ngày
nay nó gần như đã thay thế hẳn máy Telex chỉ truyền được lời văn. Nhưng máy
Fax có một số mặt hạn chế như: không thể truyền tải được âm thanh, chưa truyền
tải được các hình ảnh phức tạp, ngoài ra giá máy và chi phí sử dụng còn cao.
- Truyền hình:
Khoá luận tốt nghiệp
-10-
Số người sử dụng máy thu hình trên toàn thế giới hiện nay là rất lớn đã
khiến cho truyền hình trở thành một trong những công cụ điện tử phổ thông nhất
ngày nay.
Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong thương mại, nhất là trong quảng
cáo hàng hoá, ngày càng có nhiều người mua hàng nhờ quảng cáo trên truyền
hình, một số dịch vụ đã được cung cấp qua truyền hình (như các chương trình
đặt trước.v.v.) . Song truyền hình chỉ là mộ
t công cụ viễn thông “một chiều”; qua
truyền hình khách hàng không thể tìm kiếm được các chào hàng, không thể đàm
phán với người bán về các điều khoản mua bán cụ thể. Nay máy thu hình được
nói kết với máy tính điện tử, thì công cụ của nó được mở rộng hơn.
- Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử:
Mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc mua bán là người mua nhận được hàng và
người bán nhận
được tiền trả cho số hàng đó. Thanh toán, vì thế, là khâu quan
trọng bậc nhất của thương mại, và thương mại điện tử không thể thiếu được công
cụ thanh toán điện tử thông qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền
điện tử mà bản chất là các phương tiện tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang
tài khoản khác (nay xuất hiện cả hình thức t
ự động chuyển tiền mặt thông qua các
“túi tiền điện tử”: electronic purse). Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các máy
rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), thẻ tín dụng (credit card) các
loại, thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card: thẻ từ có gắn vi
chip điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất nhỏ) v.v.
- Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ:
Theo nghĩa rộng, mạng nội bộ
là toàn bộ mạng thông tin của một xí nghiệp
và các liên lạc đủ kiểu giữa các máy tính điện tử trong cơ quan xí nghiệp đó,
cộng với liên lạc di động. Theo nghĩa hẹp, đó là mạng kết nối nhiều máy tính ở
gần nhau (gọi là mạng cục bộ: Local Area Network - LAN); hoặc nối kết các máy
tính trong một khu vực rộng lớn hơn (gọi là mạng miền rộng: Wide Area
Network - WAN). Hai hay nhiều mạng nội bộ
liên kết với nhau sẽ tạo thành liên
Khoá luận tốt nghiệp
-11-
mạng nội bộ (cũng có thể gọi là “mạng ngoại bộ” - extranet) và tạo ra một cộng
đồng điện tử liên xí nghiệp (inter-enterprise electronic community).
- Internet và Web:
Năm 1969, Cơ quan các dự án nghiên cứu cao cấp thuộc Bộ Quốc phòng
Mỹ bắt đầu nghiên cứu các tiêu chuẩn và công nghệ - thiết bị truyền gửi dữ liệu
cho phép lập một mạng toàn quốc, nối ghép các mạng cục bộ và miền rộng sử
dụng các chuẩn công nghệ khác nhau thành một mạng chung để trao đổi thông tin
nhanh chóng và kịp thời. Năm 1983 dự án này thành công, một mạng toàn cục ra
đời, sau đó tách thành hai mạng: MILnet chuyên dùng cho quân đội và ARPAnet
dùng cho nghiên cứu và giáo dục. Các mạng máy tính đều có thể kết nối với
ARPAnet, vì thế nó được đặt tên là Internet (tức “liên mạng”). Năm 1994 toàn
thế giới có khoảng 3 triệu người kết nối Internet; năm 1996 con số đã lên trên 67
triệu người, năm 1997 đã có 110 quốc gia kế
t nối vào mạng Internet; năm 1998,
toàn thế giới có khoảng 100 triệu người sử dung Internet/Web.
Từ năm 1995, Internet được chính thức công nhận là mạng toàn cầu, nó là
“mạng của các mạng” (the network of the networks) một máy tính có địa chỉ
Internet thoạt tiên được nối vào mạng LAN, rồi tới mạng WAN, rồi vào Internet.
Nhờ đó các mạng và các máy tính có địa chỉ Internet có thể giao tiếp với nhau,
truyền gửi cho nhau các thông điệp (gọi là thư điện tử: electronic mail, t
ức e-
mail), và các dữ liệu thuộc hàng trăm ứng dụng khác nhau.
Việc kết nối các mạng như trên được thực hiện trên cơ sở các tiêu chuẩn
truyền dẫn dữ liệu trong môi trường Internet (Internet Standards), chủ yếu là giao
thức chuẩn TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol) do Bộ
Quốc phòng Mỹ (DOD: Department Of Defense) khởi thảo và phát triển (như đã
nói ở trên). Trong đó TCP chịu trách nhiệm đảm bảo việc truyền gửi chính xác
dữ liệu từ ng
ười sử dụng tới máy chủ (server) ở nút mạng, còn IP có trách nhiệm
chuyển các gói dữ liệu (packet of data) từ nút mạng này sang nút mạng khác theo
địa chỉ Internet.
Khoá luận tốt nghiệp
-12-
Khi nói Internet, ta nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau trên
phạm vi toàn cầu trên cơ sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ Internet
thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức chuẩn quốc tế
HTML (HyperText Transfer Protocol: Giao thức chuẩn truyền siêu văn bản) với
các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ HTML (HyberText Markup
Language), tạo ra nhiều dịch vụ khác nhau, mà tới nay nổi bật nhất là dịch vụ
Word Wide Web ra đời năm 1991 (thường gọi tắt là Web, và viết tắt là WWW
hoặc W3) là công nghệ sử dụng các siêu liên kết văn bản (hyberlink, hybertext)
tạo ra các văn bản có chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác, cho phép
người sử dụng tự động chuyển từ một cơ sở dữ liệu này sang một cơ sở dữ liệu
kia, bằng cách đó mà truy cập các thông tin thuộc các chủ đề khác nhau và dưới
các hình thái khác nhau (v
ăn bản, đồ hoạ, âm thanh), vừa phong phú về nội dung,
vừa hấp dẫn về hình thức. Bằng dịch vụ Web, người sử dụng đọc được các thông
tin viết bằng ngôn ngữ HTML, và truyền từ nơi này sang nơi khác trên cơ sở giao
thức chuẩn quốc tế FTP (File Transfer Protocol: giao thức chuẩn truyền tệp),
POP (Post office Protocol: giao thức chuẩn truyền thông điệp đơn giản), NNTP
(Net News Transfer Protocol: giao thức chuẩn truyền tin qua mạng; cho phép
những người sử dụng mạng thảo luận xung quanh một hoặc nhiều vấn đề cùng
quan tâm).
Web giống như một thư viện khổng lồ có nhiều triệu cuốn sách, hay như
một cuốn từ điển khổng lồ có nhiều triệu trang, mỗi trang (gọi là “trang web”-
Web page) chứa một gói thông tin có nội dung nhất định: một trang quảng cáo,
một bài viết v.v. mà số trang không ngừng tăng lên, và không theo một trậ
t tự nào
cả. Tính phức tạp và hỗn độn đó của Web dẫn tới việc nghiên cứu và cho ra đời
các phần mềm công cụ tìm kiếm (search engine) chỉ dẫn người sử dụng tìm ra địa
chỉ của thông tin theo chủ đề trong “biển thông tin” mênh mông của Web. Các
“trình duyệt Web” được dùng phổ biến nhất hiện nay là Netscape Navigator
Khoá luận tốt nghiệp
-13-
(chiếm trên 50% thị trường), Microsoft Internet Explorer (chiếm gần 23% thị
trường), và American Online (AOL: chiếm trên 16% thị trường).
Ngày nay, do công nghệ Internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây dựng
các mạng nội bộ và mạng ngoại bộ, nên ngày nay người ta càng hiểu mạng nội bộ
và mạng ngoại bộ là các “phân mạng” (subnet) của Internet. Và sau này, khi đã
chấp nhận Internet như một công cụ giao tiếp chung, ta sẽ hiểu Internet như bao
gồm cả các phân mạng ấy. Internet ra đời và phát tri
ển đã tạo đà thúc đẩy mạnh
mẽ quá trình toàn cầu hoá.
Internet với tới mọi nơi trên thế giới, nên nó mang ý nghĩa toàn cầu rõ rệt.
Các xu hướng hội tụ (convergence), tương tác (interactivity), và di động
(mobility) được thúc đẩy mạnh mẽ sẽ làm thay đổi một cách căn bản tính chất và
phẩm chất hoạt động của từng người, quan hệ người-với-người, người-với-vật thể
trong nhữ
ng năm sắp tới. Khái niệm nền “kinh tế trực tuyến” (Online Economy,
cũng gọi nền “kinh tế tại tuyến”) trong từng quốc gia, từng khu vực, và toàn thế
giới ngày nay gắn liền với Internet. Gọi là “trực tuyến” (hay “tại tuyến”) vì tất cả
các tế bào xã hội, con người cũng như phương tiện sản xuất và sản phẩm hàng
hoá đều có thể liên lạc trực tiếp với nhau, và liên tục thông qua Internet v
ới thời
gian liên lạc gần như bằng không, không cần đến giấy tờ, càng không cần đối mặt
trực thể. Mọi thông tin giao tiếp đều thông qua Internet/Web, và các phương tiện
truyền thông hiện đại khác. Vì thế, “kinh tế trực tuyến” còn có các tên gọi khác là
“kinh tế ảo” (virtual economy), “kinh tế điều khiển” (cybereconomy).
Internet tạo ra bước chuyển mới của ngành truyền thông, chuyển từ thế giới
“một mạng, một dị
ch vụ” sang thế giới “một mạng, nhiều dịch vụ” và đã trở
thành công cụ quan trọng nhất của thương mại điện tử. Dù rằng không dùng
Internet/Web vẫn có thể làm thương mại điện tử (qua các phương tiện điện tử
khác, qua các mạng nội bộ và liên mạng nội bộ). Song ngày nay, nói tới thương
mại điện tử thường có nghĩa là nói tới Internet và Web, vì thương m
ại đã và đang
trong quá trình toàn cầu hoá và hiệu quả hoá, và các xu hướng ấy đều đòi hỏi
Khoá luận tốt nghiệp
-14-
phải sử dụng triệt để Internet và Web như các phương tiện đã được quốc tế hoá
cao độ và có hiệu quả sử dụng cao.
4. Các hình thức hoạt động thương mại điện tử.
- Thư tín điện tử:
Các đối tác (người tiêu thụ, doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử dụng
hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạ
ng, gọi
là thư tín điện tử (electronic mail, gọi tắt là e-mail). Đây là một thứ thông tin dưới
dạng “phi cấu trúc” (unstructured form), nghĩa là thông tin không phải tuân thủ
một cấu trúc đã thoả thuận (là điều khác với “trao đổi dữ liệu điện tử” sẽ nói dưới
đây).
- Thanh toán điện tử:
Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua
thông điệp điện tử (electronic message) thay cho việc trao tay ti
ền mặt, việc trả
lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ
mua hàng, thẻ tín dụng v.v. đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng
thanh toán điện tử.
+ Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange,
gọi tắt là FEDI) chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao
dịch với nhau bằng điện tử.
+ Ti
ền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát
hành (ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng), sau đó được chuyển đổi tự do sang các
đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong phạm vi cả một nước cũng như
giữa các quốc gia. Tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt
này còn có tên gọi là “tiền mặt số hoá” (digital cash). Công nghệ đặc thù chuyên
phục vụ
mục đích này có tên gọi là “mã hoá khoá công khai/bí mật”
(Public/Private Key Cryptography). Tiền mặt Internet được người mua hàng mua
bằng đồng nội tệ, rồi dùng Internet để chuyển cho người bán hàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét