Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
ngang sức và tiêu biểu nhưng lại đạt kết quả khác nhau do cách kinh doanh
khác nhau và như vậy thì chỉ có thể ước tính đầy đủ hiệu quả kinh tế theo
nghĩa tương đối. Để giải thích kết luận này ông phân biệt hiệu quả kỹ thuật,
hiệu quả phân bổ và hiệu quả kinh tế.
- Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency): Là khả năng tác động của kỹ
thuật nhằm thu được kết quả sản xuất tối đa, với yếu tố đầu vào xác định,
trong điều kiện sản xuất nhất định. Hiệu quả kỹ thuật mang tính xã hội, do
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
- Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency): Là việc nghiên cứu cách
thức tổ chức quản lý khoa học để với các yếu tố đầu vào cố định, người sản
xuất có thể thu được lợi nhuận tối đa, có xem xét tới yếu tố đầu vào, đầu ra.
Hiệu quả kinh tế = hiệu quả kỹ thuật U hiệu quả phân bổ
Ta thấy hiệu quả kỹ thuật chỉ liên quan đến những đặc tính của sản xuất
vật chất, mục đích này phổ biến thích hợp với mọi hệ thống kinh tế, nó mang
tính chất xã hội. Hiệu quả phân bổ liên quan đến yếu tố tổ chức quản lý sản
xuất nhằm đạt mục đích kinh tế của người sản xuất có lợi nhuận tối đa.
2.1.3. Các quan điểm về hiệu quả kinh tế
Có rất nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế, song bản chất chung của
hiệu quả kinh tế chính là sự so sánh giữa kết quả sản xuất thu được với chi phí
bỏ ra để đạt kết quả đó. Người ta có thể quy về ba hệ thống quan điểm sau:
Hệ thống quan điểm thứ nhất: Hiệu quả kinh tế được đo bằng hiệu số
giữa giá trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó
trong một thời gian nhất định.
Công thức: H = Q – K
Trong đó: H - Hiệu quả kinh tế
Q - Kết quả đạt được
K - Chi phí sản xuất bỏ ra
5
5
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tuyệt đối.
Hệ thống quan điểm thứ hai: Hiệu quả kinh tế là tỷ số giữa kết quả đạt
được và chi phí sản xuất bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Theo quan điểm này, hiệu quả kinh tế được thể hiện bằng số tương đối.
Công thức: Q K
H = (1a); H = (1b)
K Q
Hệ thống quan điểm thứ ba: Hiệu quả kinh tế là tỷ lệ phần tăng thêm
của kết quả so với phần tăng thêm của chi phí.
Công thức: ∆Q ∆K
H = (2a); H = (2b)
∆K ∆Q
Trong đó: ∆Q – Phần tăng thêm của kết quả
∆K – Phần tăng thêm của chi phí
Theo quan điểm này, các nhà kinh tế chỉ quan tâm đến hiệu quả của phần
mở rộng, phần tăng thêm của sản xuất trong kỳ. Quan điểm này không đề cập
đến mức chi phí ban đầu đã bỏ ra cũng như kết quả đã thu được tương ứng
với mức đầu tư đó.
Mỗi hệ thống quan điểm trên đều có những ưu và nhược điểm nhất định.
Hệ thống quan điểm thứ nhất cho biết kết quả một cách cụ thể, chính
xác, phản ánh quy mô khối lượng rõ ràng, song chưa phản ánh trình độ sử
dụng nguồn lực, chưa nghiên cứu kết quả đạt được trong mối liên hệ chặt chẽ
với các yếu tố đầu vào (với cùng kết quả như nhau nhưng sử dụng nguồn lực
khác nhau thì hiệu quả kinh tế cũng khác nhau), chưa rút ra được bản chất và
xu hướng kinh doanh.
Hệ thống quan điểm thứ ba cho phép phân tích so sánh giữa mức độ tăng
trưởng của kết quả và mức tăng thêm của chi phí biến đổi, phản ánh được
trình độ sử dụng nguồn lực song không phản ánh được quy mô sử dụng nguồn
6
6
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
lực, chưa cho biết kết qủa bằng số liệu cụ thể có sức thuyết phục. Nếu chỉ sử
dụng quan điểm thứ ba thì có thể doanh nghiệp có hiệu quả kinh tế nhưng
toàn xã hội lại không đạt hiệu quả kinh tế vì nguồn lực bị khan hiếm, bị giới
hạn. Quan điểm này thường được áp dụng khi phân tích hiệu quả đầu tư theo
chiều sâu hay áp dụng các biện pháp thâm canh để lựa chọn phương án cho
phù hợp.
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước: Hiệu quả
kinh tế là phạm trù kinh tế liên quan đến sản xuất hàng hoá, chịu sự tác động
của các quy luật kinh tế, phản ánh chất lượng của các hoạt động SXKD, phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong sản xuất. Khi phân tích hiệu quả
kinh tế trong sản xuất kinh doanh người ta phải kết hợp các hệ thống quan
điểm với nhau, trong đó các doanh nghiệp thường chú trọng sử dụng hệ thống
quan điểm thứ hai (H = Q/K). H > 1 chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi, H
càng lớn có nghĩa là hiệu quả kinh tế càng cao.
2.1.4. Hiệu quả kinh tế trên quan điểm kinh tế học sản xuất
Xã hội chịu sự chi phối bởi quy luật khan hiếm nguồn lực, thực tế các
nguồn lực như đất đai, lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên khan hiếm.
Trong khi đó nhu cầu của xã hội tăng nhanh cả về số lượng, chất lượng. Do
vậy, vấn đề đặt ra là phải tiết kiệm nguồn lực, từng bước nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực nói chung, trước hết mỗi quá trình sản xuất phải lựa chọn
đầu vào tối ưu. Khi đề cập tới hiệu quả các nguồn lực, thông thường người ta
nói tới hiệu quả kinh tế về việc sử dụng các nguồn lực đó. Hiệu quả sản xuất
đã được nhiều học giả bàn tới như Farrell (1957), Schultz (1964), Rizzo
(1979), Ellis (1993). Các học giả đều đi đến thống nhất là phải phân biệt rõ ba
khái niệm cơ bản về hiệu quả :
- Hiệu quả kỹ thuật (Technical Efficiency)
- Hiệu quả phân bổ (Allocative Efficiency)
- Hiệu quả kinh tế (Economic Efficiency)
7
7
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Khi bàn về lý thuyết về hiệu quả sản xuất như Farell (1957) đã đưa ra
hiệu quả của một doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận cấu thành. Một là hiệu
quả kỹ thuật, phản ánh khả năng của doanh nghiệp tối đa hoá sản lượng đầu ra
với một lượng đầu vào và công nghệ nhất định. Hai là hiệu quả phân bổ, phản
ánh khả năng của doanh nghiệp sử dụng đầu vào ở quy mô tốt nhất với mức
giá và công nghệ sản xuất nhất định. Khi hãng đạt cả hiệu quả kỹ thuật và
hiệu quả phân bổ thì sẽ đạt HQKT.
Xác định hiệu quả kỹ thuật đã đạt được của doanh nghiệp sẽ giúp chúng
ta đi đến quyết định nên thay đổi công nghệ sản xuất hay tiếp tục nâng cao
hiệu quả kỹ thuật để nâng cao sản lượng đầu ra.
Hiệu quả kỹ thuật rất quan trọng trong phát triển sản xuất, đặc biệt ở
những nước đang và chậm phát triển, các nước có nguồn lực khan hiếm, ít có
cơ hội phát triển và phát triển công nghệ mới là cực kỳ khó khăn. Ở các nước
này có thể nâng cao lợi ích kinh tế bằng cách nâng cao hiệu quả kỹ thuật mà
không cần đầu tư thêm nguồn lực hay phát triển công nghệ mới.
2.2. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TRONG SẢN
XUẤT KINH DOANH
Thông qua quá trình tổ chức sản xuất, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá dịch
vụ cho xã hội, mục tiêu của các doanh nghiệp là tìm kiếm sự chênh lệch giữa
kết quả và chi phí (chính là lợi nhuận). Trong phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp kinh doanh, hiệu quả kinh tế đồng nghĩa với lợi nhuận. Muốn đạt lợi
nhuận tối đa, người ta cần quan tâm đến các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh
tế. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu, là mục tiêu của mọi nền sản
xuất bởi vì:
- Bản chất của hiệu quả là nâng cao năng suất lao động xã hội, tiết kiệm
mọi hao phí lao động cần thiết. Tiết kiệm hao phí lao động là mục tiêu phấn
đấu của mọi nền sản xuất xã hội.
- Các nguồn lực bị giới hạn và ngày càng khan hiếm, trong khi nhu cầu
của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi sử dụng nguồn lực phải khoa học, hiệu quả.
8
8
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Có hiệu quả, doanh nghiệp mới có điều kiện để đầu tư đổi mới
thiết bị và công nghệ, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, giá thành thấp,
mở rộng thị trường tiêu thụ, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập, cải thiện
đời sống cho người lao động. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh tế trong SXKD
là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, có ý nghĩa sống còn đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ
Hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh dưới cái nhìn tổng
quát nó phản ánh mối quan hệ tương quan giữa chi phí bỏ ra cho đầu vào và
kết quả thu được ở đầu ra. Đồng thời phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực để đạt hiệu quả mong muốn. Để có được kết quả như ý muốn, tất cả các
công ty, doanh nghiệp phải tính đến các yếu tố có thể ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp đến kết quả của mình. Đó có thể là yếu tố ngay trong bản thân doanh
nghiệp nhưng cũng có thể là các tác động từ bên ngoài cụ thể như sau:
2.3.1. Nhóm nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp
Ta chỉ xét đến những doanh nghiệp, công ty làm ăn vì mục đích kinh tế,
sự tồn tại và phát triển của chúng phụ thuộc trực tiếp vào phương tiện và con
người sử dụng phương tiện đó và hơn cả là sự kết hợp các yếu tố này với
nhau. Các yếu tố đó gồm: lao động, nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ, kinh
nghiệm và trình độ của ban quản trị… Mỗi sự thay đổi của các yếu tố đó có
thể có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất của đơn vị, doanh nghiệp
đó.
* Nhân tố lao động
Lao động là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất.
Lao động trong doanh nghiệp là toàn bộ đội ngũ lao động với trình độ
tay nghề và năng lực cá nhân riêng. Vai trò tích cực của người lao động trong
doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng tiếp thu tay nghề cùng với ý thức chấp
9
9
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
hành kỷ luật lao động cũng như khả năng của người lao động trong việc phân
công công việc vào chế độ tiền lương, thưởng cho lao động của doanh nghiệp.
Chất lượng lao động là yếu tố quyết định đến hiệu quả của quá trình sản
xuất kinh doanh, nó liên quan đến sức khoẻ và sự gắn bó của người lao động
với doanh nghiệp. Chất lượng lao động phụ thuộc vào trình độ thành thạo tay
nghề của công nhân (số công nhân ở từng bậc thợ, số công nhân đã qua đào
tạo, số công nhân có trình độ cơ khí hoá, tự động hoá…) của doanh nghiệp.
Trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ tiến bộ rất nhanh, đòi hỏi chất
lượng lao động không ngừng được tăng lên, lao động phải có văn hoá, có tri
thức, nắm bắt được khoa học kỹ thuật, trình độ lành nghề, phải thường xuyên
nâng cao trình độ thì mới có thể điều khiển máy móc trang thiết bị hiện đại,
sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
xã hội, phục vụ nhu cầu sản xuất hàng hoá để xuất khẩu. Chất lượng lao động
còn phụ thuộc vào trình độ quản lý, cách thức tổ chức sản xuất của bộ máy
gián tiếp.
Tóm lại, người lao động và chất lượng lao động của họ sẽ giúp doanh
nghiệp tồn tại và phát triển hoặc kéo doanh nghiệp thụt lùi… Chính sách quản
lý lao động phải động viên, khuyến khích người lao động đem hết khả năng,
sức lực cống hiến cho doanh nghiệp. Nếu làm tốt doanh nghiệp sẽ tạo được
đội ngũ lao động có trình độ và chất lượng cao, qua đó sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật – công nghệ
Nhân tố này có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện tới hiệu quả của quá trình
sản xuất kinh doanh. Nó quyết định quy mô sản xuất, năng suất lao động,
chiến lược sử dụng các nguồn lực sản xuất. Công nghệ được hiểu là tất cả các
phương thức, những quá trình áp dụng khoa học kỹ thuật để chuyển hoá các
nguồn lực sản xuất, là tập hợp các quá trình sử dụng các yếu tố, điều kiện
nhằm mục đích tạo ra sản phẩm với chất lượng tốt nhất với giá cả phù hợp.
10
10
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Quyết định về công nghệ phải phù hợp với từng giai đoạn của quá trình
sản xuất, phù hợp với trình độ và năng lực của những người trực tiếp sử dụng
công nghệ nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ và hiệu quả
của quá trình sản xuất kinh doanh.
* Lựa chọn và tổ chức các yếu tố đầu vào
Đây là yếu tố có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp
chế biến. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có nguồn đầu
vào chủ yếu là nguyên liệu chính, đây là công việc đầu tiên của các nhà kinh
doanh. Yêu cầu cơ bản đặt ra là phải cung cấp đầy đủ, đúng số lượng, chất
lượng, chủng loại nguyên liệu cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc cung cấp đầy đủ, đúng tiến độ, đúng nhu cầu của nơi sản xuất sẽ góp
phần đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiếp tục duy trì và thu hút khách hàng
hơn nữa. Cung cấp đúng, đủ và đảm bảo chất lượng của nguyên liệu sẽ giúp
doanh nghiệp xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch sản xuất.
Đối với công ty cổ phần chế biến thực phẩm Hải Tân – Yên Hưng –
Quảng Ninh, do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh là chế biến hàng
xuất khẩu nên nguyên liệu đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguyên liệu
chính dùng cho sản xuất là thuỷ, hải sản như tôm, cá, mực nên công ty phải
hết sức chú ý đến vấn đề thu mua và bảo quản nguyên liệu do những yêu cầu
nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh thực phẩm mà Bộ y tế ban hành.
Như vậy, việc thu mua nguyên liệu, bảo quản chúng một cách tối ưu,
việc tổ chức các phương án xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, việc
kiểm tra chất lượng nguyên liệu là những nhân tố quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Thông tin và văn hoá trong doanh nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự trao đổi thông tin qua lại giữa
những người trực tiếp lãnh đạo với các bộ phận, phòng ban, các phân xưởng
sản xuất sẽ truyền đi những thông tin có liên quan đến hoạt động của bộ phận
mình.
11
11
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
Văn hoá trong doanh nghiệp bao gồm: Các quan hệ ứng xử giữa các
thành viên, các bộ phận, các cấp bậc trong doanh nghiệp và các triết lý kinh
doanh, các thói quen hoạt động, đạo đức kinh doanh. Chúng tạo lên một môi
trường hoà đồng, gắn kết khuyến khích người lao động làm việc có trách
nhiệm, có hiệu quả và cùng hướng tới mục đích chung của doanh nghiệp.
Thực tế chứng tỏ doanh nghiệp nào xây dựng được môi trường thông tin
kịp thời, nhanh và mối quan hệ tốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh thì
chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh sẽ không ngừng
tăng lên.
2.3.2. Nhóm nhân tố khách quan tác động tới hiệu quả kinh tế
Nền kinh tế nói chung, mỗi một doanh nghiệp nói riêng, chịu sự tác động
rất nhiều từ những nhân tố khách quan, doanh nghiệp chỉ có thể thích nghi mà
không thể kiểm soát và quản lý được, những nhân tố này có thể tác động tích
cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, đến hiệu quả kinh tế. Cụ thể do
các nhân tố:
* Điều kiện tự nhiên
Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động có mục đích của con người,
địa bàn hoạt động trải rộng trên toàn bộ lãnh thổ. Khí hậu thời tiết có thể tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất kinh doanh của mỗi ngành, mỗi
doanh nghiệp và tác động đến HQKT. Ngày nay do sự tàn phá dữ dội của con
người, môi trường tự nhiên và hệ sinh thái biến động xấu. Do vậy, khí hậu
thời tiết có nhiều biến đổi không tuân theo quy luật như quy luật mưa, nắng,
bão, lũ
* Môi trường kinh tế
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều phát triển kinh tế mở, theo
xu hướng toàn cầu hoá. Do vậy, sự biến động của kinh tế thế giới sẽ tác động
đến kinh tế mỗi nước và ngược lại. Tuy nhiên, sự biến động của kinh tế mỗi
nước tác động đến kinh tế thế giới mạnh hay yếu lại phụ thuộc vào vị thế kinh
12
12
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
tế của nước đó trong hệ thống kinh tế thế giới. Ví dụ nền kinh tế Mỹ, nền kinh
tế giữ vị trí số một thế giới, sau sự kiện ngày 11/9/2001, kinh tế Mỹ biến động
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của thế giới nói chung. Sự biến
động này tác động trước hết đến xuất - nhập khẩu và gây biến động giá ở một
số thị trường hàng hoá trên thế giới, như vậy tác động đến kết quả và HQKT
của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp.
Trạng thái kinh tế của kinh tế thế giới và kinh tế trong nước: Sự vận
hành của mỗi nền kinh tế chi phối bởi quy luật chu kỳ kinh doanh. Biểu hiện
ở ba trạng thái đó là: Kinh tế thịnh vượng, kinh tế cân bằng tối ưu và kinh tế
suy thoái. Thời kỳ kinh tế thịnh vượng toàn bộ nền kinh tế nói chung, mỗi
ngành, mỗi doanh nghiệp nói riêng phát triển nhanh. Do vậy, HQKT ngành và
các doanh nghiệp cao, ngược lại nền kinh tế ở vào thời kỳ suy thoái sản xuất
đình đốn, giá cả biến động. Do vậy, quy mô sản xuất của các doanh nghiệp
giảm, kết quả và HQKT thấp.
* Môi trường chính trị và pháp luật
Đây là nền tảng để quy định các yếu tố khác nhau của môi trường kinh
doanh và môi trường sản xuất kinh doanh. Quan điểm đường lối chính trị sẽ
tạo cơ hội hoặc là cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hệ thống pháp lý gồm hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các chính
sách chế độ, các quy định pháp luật về sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đều có tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường chính trị, luật pháp ổn định lành mạnh sẽ giúp doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả hơn trong cơ chế thị trường hiện nay.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều tổ chức nền kinh tế của mình theo
mô hình kinh tế hỗn hợp, thể chế tư nhân và Nhà nước cùng tham gia quản lý
và điều tiết nền kinh tế, tư nhân điều tiết theo cơ chế “bàn tay vô hình”, Nhà
nước điều tiết bằng luật lệ, thể chế và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), Việt Nam đã đổi mới
cơ chế quản lý chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (kinh tế
13
13
Luận văn Tốt nghiệp Đại học SV: Nguyễn Thị Thuỳ Linh
chỉ huy) sang nền kinh tế thị trường có quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Thực chất đây là mô hình kinh tế hỗn hợp.
Chính phủ can thiệp vào nền kinh tế bằng các luật lệ, chính sách trước
hết là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế đối ngoại
Các chính sách này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới sản xuất. Như vậy,
ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả kinh tế của các ngành và các doanh
nghiệp. Ngoài ra Chính Phủ có thể can thiệp trực tiếp đến giá cả và tiêu dùng
bằng cách áp đặt giá trần, giá sàn, chính sách tiền lương Do vậy, sẽ làm thay
đổi chi phí sản xuất và HQKT.
* Môi trường kỹ thuật công nghệ
Bao gồm các nhân tố: Khoa học kỹ thuật, phát minh sáng chế, thành tựu
và tiến bộ kỹ thuật. Chúng ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chất lượng
và giá bán của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp trên thị
trường như vậy chúng đã tác động tới thị trường, tới nhà sản xuất, tới khách
hàng, tới quá trình sản xuất kinh doanh và vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường. Các ảnh hưởng của môi trường kỹ thuật công nghệ còn thể
hiện khá rõ trong lĩnh vực thu thập, xử lý, lưu trữ truyền đạt thông tin kinh tế
– xã hội phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Yếu tố giá cả trên thị trường
Trong kinh tế thị trường giá cả luôn biến động, khi giá cả thay đổi ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Khi nói đến giá
cả trên thị trường, chúng ta phải đề cập tới giá các yếu tố đầu vào và giá sản
phẩm đầu ra. Trên thị trường giá các yếu tố đầu vào tăng sẽ làm cho chi phí
sản xuất tăng, chi phí sản xuất tăng sẽ làm cho kết quả và HQKT của doanh
nghiệp giảm. Mặt khác khi giá sản phẩm đầu ra tăng, kích thích sản xuất của
doanh nghiệp phát triển, kết quả và HQKT cũng tăng.
Ngoài ra trong chiến lược phát triển kinh tế mở, tỷ giá hối đoái thay đổi
cũng ảnh hưởng đến kết quả và HQKT của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt những
14
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét