+ Thời gian nghiên cứu: Chỉ nghiên cứu các vụ án xảy ra từ năm 2002
đến năm 2006ay thuộc chức năng điều tra của lực lượng CSĐTTP về
TTXHCảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an thành phố Hồ Chí
Minh.
6/. Phương pháp nghiên cứu:
a/. Phương pháp luận:
Phương pháp luận chỉ đạo hoạt động nghiên cứu là phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác –- Lê nin. Các quan điểm của Đảng, pháp luật của
nhà nước về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các nguyên tắc cơ bản
của khoa học pháp lý, khoa học điều tra hình sự, lý luận về hoạt động trinh
sát
b/. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các văn bản pháp luật,
các công trình nghiên cứu, các tài liệu khác có liên quan đến hoạt động tội
phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở công dântrộm cắp tài sản tại nơi ở của công
dân và công tác điều tra của lực lượng CSĐTTP về TTXH trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh.
-Phương pháp thống kê hình sự: Thu thập, hệ thống, phân tích, tổng
hợp, đánh giá các tài liệu, số liệu phản ánh hoạt động điều tra án trộm cắp tài
sản tại nơi ở trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
-Phương pháp điều tra điển hình: Nghiên cứu sâu một số vụ án điển
hình cho từng loại phương thức, thủ đoạn gây án. Từ đó rút ra những kết luận
phù hợp với mục đích nghiên cứu.
-Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn: Thông qua công tác
khảo sát tình hình thực tiễn tại các đơn vị trực tiếp tiến hành các hoạt động
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản tại nơi ở từ đó nghiên cứu, tổng hợp, rút ra
5
các nguyên nhân, bài học kinh nghiệm làm giải pháp đề ra các biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động điều tra.
-Phương pháp toạ đàm, lấy ý kiến chuyên gia: Trực tiếp toạ đàm, trao
đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu lý luận cũng như các đồng chí
trực tiếp làm công tác hoạt động điều tra án trộm cắp tài sản tại nơi ở trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh để rút ra những kinh nghiệm phục vụ đề tài
nghiên cứu.
-Phương pháp tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đóng góp làm phong phú thêm lý luận nghiệp vụ hoạt động điều tra
tội phạm của lực lượng CSND nói chung và của lực lượng CSĐTTP về
TTXH nói riêng.
- Những đề xuất của đề tài có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực
tiễn chỉ đạo và tiến hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra điều tra án trộm cắp tài sản tại nơi ở công dântrộm cắp tài sản
tại nơi ở của công dân của lực lượng CSĐTTP về TTXH trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh
- Nội dung của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
quá trình nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành điều tra tội phạm của Học viện
Cảnh sát nhân dân nói riêng và trong các trường Công an nhân dân nói chung.
8/. Những yếu tố mới cần đạt được của đề tài:
-Hệ thống hoá thực trạng tình hình tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2002 đến năm 2006ay.
-Đánh giá tổng quát hoạt động điều tra tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi
ở của lực lượng CSĐTTP về TTXH trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh;
phân tích các ưu khuyết điểm, nguyên nhân và tồn tại.
6
- Đồng thời lLuận văn cũng dự báo hoạt động của loại tội phạm này
trong thời gian tới và đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
phòng ngừa, đấu tranh tội phạm trộm cắp tài sản tại nơi ở trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.
9/. Nội dung và các vấn đề cần giải quyếtCấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được nội dung đề tài
được cấu trúc thành 003 chương.
- Chương 1: Nhận thức chung về tội phạm trộm cắp và phương pháp
điều tra các vụ án trộm cắp tài sản tại nơi ởtrộm cắp tài sản tại nơi ở của công
dân.
- Chương 2: Thực trạng tình hình tội phạm cắp tài sản tại nơi ở công
dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và hoạt động phát hiện, điều tra của
lực lượng CSĐTTP về TTXH.
- Chương 3: Dự báo tình hình tội phạm và Nnhững giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra các các vụ án trộm cắp tài sản tại nơi ở xảy ra
trong nhà công dân trên địa bàn thành phố Thành phố Hồ Chí Minh.
7
8
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRỘM CẮP
VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI NƠI Ở CẮP TÀI SẢN TẠI NƠI Ở
CỦA CÔNG DÂN
1.1. Nhận thức chung về tội phạm trộm cắp.
1.1.1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về tội phạm trộm cắp.
Chương XIV Bộ luật Hình sựBLHS năm 1999 nước ta quy định về các
tội xâm phạm sở hữu, có đưa ra những hành vi phạm tội mà người phạm tội
thực hiện một cách lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc
đang do người khác quản lý, một trong những hành vi đó là hành vi trộm cắp
tài sản.
Trước đây, trong Bộ luật Hình sựBLHS Việt Nam 1985, tội phạm trộm
cắp tài sản được quy định bởi hai điều luật: Điều 132, quy định về tội trộm
cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa và Điều 155, quy định về tội trộm cắp tài sản
công dân.
Nghiên cứu những qui định trên cho thấy có sự phân biệt rạch ròi giữa
tài sản Nhà nước, tài sản tập thể và tài sản riêng của công dân từ đó làm cơ sở
xây dựng một chế tài hình phạt khá cụ thể (cùng một khung hình phạt thì tội
trộm cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa có mức hình phạt cao hơn tội trộm cắp tài
sản công dân). Điều này phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
trong thời điểm nước ta bước vào xây dựng CNXH, cần phải chủ động tập
trung bảo vệ tài sản Nhà nước, tài sản chung của xã hội. Đồng thời qui định
như vậy cũng là một kế thừa những qui định trước đây của pháp lệnh trừng trị
các tội phạm xâm phạm tài sản Nhà nước và tài sản công dân. Trên cơ sở đó
9
ngành Công an đã phân công trách nhiệm đấu tranh cho các lực lượng cảnh
sát kinh tế (sau này là CSĐTTP về TTQLKT và chức vụ) và cảnh sát hình sự
(sau này là CSĐTTP về TTXH) để được đảm bảo chuyên sâu đối với từng
lĩnh vực.
Tuy nhiên thực tiễn đấu tranh phòng ngừa, điều tra, xét xử đối với các
loại tội phạm trộm cắp tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân qua nhiều
năm cho thấy cả hai loại tội phạm trên có nhiều điểm giống nhau:
-Trước hết về hành vi khách quan: đều là những hành vi, thủ đoạn "lén
lút, bí mật chiếm đoạt tài sản" đối tượng là những tài sản có giá trị, làm thiệt
hại về kinh tế.
-Khách thể đều xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, làm mất đi
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của người khác, gây nên sự lo lắng
của con người, gây mất trật tự xã hội.
-Chủ thể cũng là những con người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
-Chủ quan đều do lỗi cố ý trực tiếp.
-Bên cạnh đó xXuất phát từ quan điểm tích cực của pháp luật nước ta:
"Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật" tài sản hợp pháp của bất kỳ ai
trong xã hội đều được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cho nênVì vậy khi
phân biệt cụ thể tài sản XHCN và tài sản riêng của công dân dễ dẫn đến tư
tưởng phân biệt đối tượng đấu tranh, coi thường bảo vệ tài sản riêng của công
dân. Đặc biệt trong thời điểm kinh tế thị trường XHCN hiện nay và đặc điểm
của sở hữu tài sản có những lúc khó phân biệt tài sản thuộc sở hữu nào.
Qua quá trình sữửa đổi và xây dựng mới Bộ luật Hình sựBLHS, hiện
nay theo Bộ luật Hình sựBLHS năm 1999 đã có bước cải tiến mới trong qui
định về tội phạm nói chung và tội phạm trộm cắp tài sản nói riêng, cụ thể đã
quy định tội phạm trộm cắp tài sản cùng một điều luật, Điều 138- Bộ luật hình
10
sự BLHS1999 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ( BLHS- 1999) quy định
về tội phạm trộm cắp tài sản như sau:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm
nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lỷ hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
6 tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đọaoạn xảo quyệt,nguy hiểm;
e) Hành hung để tẩu thoát;
f) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
11
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
triệu đồng.
Như vậy, theo như quy định của Điều luật, tội phạm trộm cắp tài sản có
một số đặc điểm pháp lý sau:
*Mặt khách thể của tội phạm: Tội phạm trộm cắp tài sản xâm hại đến
quyền sở hữu của người khác về tài sản, đồng thời tác động xấu đến trật tự an
toàn xã hội ( TTATXH ).
-Điều 138 nằm trong Chương XIV - "Các tội xâm phạm sở hữu'. Điều
đó có nghĩa là tội trộm cắp là một trong các tội xâm phạm sở hữu. Khách thể
của tội phạm trộm cắp cũng tương tự như khách thể các tội có tính chất chiếm
đoạt khác, tuy nhiên tội trộm cắp tài sản chỉ xâm hại đến quan hệ sở hữu, chứ
không xâm hại đến quan hệ nhân thân. Điều 138 không quy định thiệt hại về
tìính mạng, sức khỏe là tình tiết định tội cũng như định khung hình phạt, vì
vậy nếu khi thực hiện hành vi trộm cắp, người phạm tội bị đuổi bắt mà có
hành vi chống traả để tẩu thoát, gây chết người, gây thương tích hoặc gây tổn
ghại sức khỏe cho người khác thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội
còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
Tội phạm trộm cắp tài sản xâm hại đến quyền sở hữu của người khác
về tài sản, điều này có nghĩa rằng tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản
là tài sản đang có chủ và không phải hoặc không hoàn toàn thuộc quyền sổ
hữu của người thực hiện tội phạm. Hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do
mình quản lý cũng như hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có chủ đều
12
không phải là hành vi trộm cắp. Tài sản được coi là đang có chủ là gồm các
tài sản sau:
+Tài sản đang nằm trong sự chiếm sỡ hữu của người khác, nghĩa là
đang nằm trong trong sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có
trách nhiệm.
+Tài sản đang còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản.
Đây là trường hợp tài sản tuy đã thoát ly khỏi sự chi phối về mặt thực tế của
chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong khu vực bảo
quản.
Trường hợp đặc biệt, tài sản bị xâm hại là là tài sản chung của người
phạm tội với người khác, đây là những trường hợp hành vi phạm tội về hình
thức, tuy tác động đến cả phần tài sản của mình, nhưng thực chất lại nhằm
gây thiệt hại về tài sản cho người cùng sở hữu với mình.
Xét về mặt khách quan, chỉ những tài sản thuộc các loại trên mới có thể
là đối tượng của tội trộm cắp tài sản. Xét về mặt chủ quan, người phạm tội
phải biết tài sản bị chiếm đoạt là tài sản của người khác, nếu người phạm tội
thực sự có sự sai lầm tài sản không có chủ thì hành vi không cấu thành tội
phạm trộm cắp tài sản. Để đánh giá sự sai lầm của người phạm tội có căn cứ
hay không cần xem xét đặc điểm của tài sản và vị trí của tài sản đó.
-Ngoài ra khi những vụ trộm cắp tài sản xảy ra trên thực tế thường gây
ra tình trạng lo sợ không yên tâm công tác và sinh hoạt của con người trong
xã hội, làm phức tạp thêm tình hình trật tự xã hội.
*Mặt khách quan của tội phạm: Đặc trưng nổi bật nhất trong mặt khách
quan của tội phạm trộm cắp tài sản đó là: có hành vi lén lút, bí mật để chiếm
đoạt tài sản của người khác. Trong mặt khách quan của tội phạm ta cần làm rõ
hình vi chiếm đoạt, giá trị tài sản, hậu quả và công cụ phương tiện:
13
-Hành vi chiếm đoạt tài sản: Hành vi đó phải là lén lút, bí mật. Đây là
dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở các tội xâm phạm
sở hữu của công dân có tính chất chiếm đoạt khác. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc
điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt, vừa chỉ ý thức chủ quan của người
thực hiện hành vi.
Lén lút, bí mật được hiểu là hành vi được thực hiện bằng hình thức mà
hình thức đó làm cho chủ tài sản không biết có hành chiếm đoạt xảy ra khi
hành vi này xảy ra. Ý thức che giấu hành vi chiếnm đoạt của người phạm tội
thể hiện ở hai hình thức:
+Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội: Người phạm tội che giấu hành vi
chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản đối với người đang chiếmsỡ hữu tài sản,
người đang quản lý tài sản đồng thời còn bí mật cả với những người xung
quanh khu vực có tài sản.
+Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi phạm tội: Người phạm tội
không che giấu hành vi thực tế mà chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành
vi, những người không phải chủ tài sản, không phải người quản lý tài sản vẫn
biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành trộm cắp. Trong thực tiễn,
trường hợp nêu trên vẫn thường xảy ra, vì vậy cần phải nhận thức đúng hành
vi đó là trộm cắp để định hướng điều tra ban đầu cho chính xác, không nhầm
lẫn với trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản.
-Giá trị của tài sản bị chiếm đoạt và hậu quả tác hại. Căn cứ vào khoản
1, Điều 138 BLHS năm 1999, chỉ được coi là phạm tội trộm cắp tài sản trong
những trường hợp sau:
+Giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên (đến dưới
năm mươi triệu đồng).
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét