www.document.vn
triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tài trợ
thương mại và các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế khác…
Hoạt động TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi thực hiện các
nghiệp vụ TTQT, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn ngoại tệ tạm thời nhàn
rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán quốc tế với ngân hàng dưới hình
thức các khoản ký quỹ chờ thanh toán.
TTQT còn tạo điều kiện hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Các ngân hàng sẽ
áp dụng các công nghệ tiên tiến để hoạt động TTQT được thực hiện nhanh chóng,
kịp thời và chính xác, nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở rộng qui mô và mạng lưới
ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với các ngân hàng nước
ngoài, nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác được
nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài và nguồn vốn trên thị trường tài chính
quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân hàng.
Như vậy, thanh toán quốc tế có vai trò rất quan trọng đối với các ngân hàng.
Trong TTQT, việc các bên tham gia lựa chọn phương thức thanh toán là một
điều kiện rất quan trọng. PTTT tức là chỉ người bán dùng cách nào để thu tiền về,
người mua dùng cách nào để trả tiền. Tuỳ theo những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể,
các bên tham gia trong thương mại quốc tế sẽ lựa chọn và thoả thuận với nhau, cùng
sử dụng một PTTT thích hợp trên nguyên tắc cùng có lợi, người bán thu được tiền
nhanh và đầy đủ, người mua nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn. Để
phù hợp với tính đa dạng và phong phú của mối quan hệ thương mại và TTQT,
người ta đã thiết lập nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Các phương thức
thanh toán quốc tế dùng trong ngoại thương hiện nay gồm có: phương thức thanh
toán chuyển tiền (Remittance), phương thức uỷ thác thu (Collection), phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit)…
Trong thực tế, khi các bên mua bán chưa có sự tín nhiệm nhau thì thanh toán
TDCT là phương thức phổ biến, được các bên tham gia hợp đồng ngoại thương ưa
chuộng vì nó bảo vệ quyền lợi và bình đẳng cho tất cả các bên tham gia(người mua,
người bán, ngân hàng). Hiện nay ở Việt Nam và các nước trên thế giới, thanh toán
Trang 5
www.document.vn
bằng thư tín dụng được sử dụng nhiều nhất, chiếm khoảng 80% trong tổng số kim
ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu. Trong nội dung tiếp theo em xin đề cập sâu về
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
1.2. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.2.1. Khái niệm về phương thức tín dụng chứng từ
Phương thức Tín dụng chứng từ (TDCT) là phương thức thanh toán, trong đó
theo yêu cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư (gọi là thư tín
dụng- letter of credit) cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ ba khi
người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện
và điều khoản quy định trong thư tín dụng.
Từ khái niệm trên cho thấy, phương thức tín dụng chứng từ có thể được áp
dụng trong nội thương và ngoại thương. Trong ngoại thương, theo yêu cầu của nhà
NK, ngân hàng phát hành một thư tín dụng cho nhà XK hưởng. Nội dung chủ yếu
của thư tín dụng là sự cam kết của ngân hàng phát hành L/C sẽ trả tiền cho nhà XK
khi nhà XK tuân thủ những điều kiện quy định trong L/C và chuyển bộ chứng từ
cho ngân hàng để thanh toán.
Thuật ngữ “tín dụng- credit” ở đây được dùng theo nghĩa rộng, nghĩa là “tín
nhiệm”, chứ không phải để chỉ “một khoản cho vay” theo nghĩa thông thường. Điều
này được thể hiện rõ trong trường hợp khi người NK ký quỹ 100% giá trị của L/C,
thì thực chất ngân hàng không cấp bất cứ một khoản tín dụng nào,mà chỉ cho người
NK “vay” sự tín nhiệm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà NK không hề ký
quỹ, thì một khoản tín dụng thực sự chỉ có thể xảy ra khi ngân hàng phát hành L/C
tiến hành trả tiền cho nhà XK và ghi nợ nhà NK. Như vậy, thuật ngữ “tín dụng”
trong phương thức TDCT chỉ thể hiện khoản “tín dụng trừu tượng” bằng lời hứa trả
tiền của ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của nhà NK, vì ngân hàng có tín nhiệm
hơn nhà NK.
Như vậy, trong phương thức TDCT, ngân hàng không chỉ là người trung gian
thu hộ, chi hộ, mà còn là người đại diện cho nhà NK thanh toán tiền hàng cho nhà
XK, bảo đảm cho nhà XK nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã
Trang 6
www.document.vn
cung ứng. Đồng thời, ngân hàng còn là người đảm bảo cho nhà NK nhận được số
lượng và chất lượng hàng hoá phù hợp với bộ chứng từ và số tiền mình bỏ ra.
Rõ ràng là, nhà NK có cơ sở để tin chắc rằng, ngân hàng sẽ không trả tiền
trước khi nhà XK giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà XK phải xuất trình bộ
chừng từ gửi hàng.Trong khi đó, nhà XK tin chắc rằng sẽ nhận được tiền hàng XK
nếu anh ta trao cho ngân hàng phát hành L/C bộ chứng từ đầy đủ và phù hợp theo
như qui định trong L/C.
1.2.2. Các bên tham gia
1. Người xin mở L/C (Applicant for L/C): là người yêu cầu ngân hàng
phục vụ mình phát hành một L/C, và có trách nhiệm pháp lý về việc
trả tiền của ngân hàng cho người bán theo L/C này. Người xin mở
L/C có thể là người mua (buyer), nhà NK (importer), người mở L/C
(opener), người trả tiền (accountee).
2. Người thụ hưởng L/C (Beneficiary): là người được hưởng tiền
thanh toán hay sở hữu hối phiếu chấp nhận thanh toán.Người thụ
hưởng L/C có thể có những tên gọi khác nhau như: người bán
(seller), nhà XK (exporter), người ký phát hối phiếu (drawer).
3. Ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank) hay ngân hàng mở L/C
(Opening Bank): là ngân hàng mà theo yêu cầu của người mua, phát
hành một L/C cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hành thường
được hai bên mua bán thoả thuận và quy định trong hợp đồng mua
bán.
4. Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng được ngân
hàng phát hành yêu cầu thông báo L/C cho người thụ hưởng. Ngân
hàng thông báo thường là một ngân hàng đại lý hay một chi nhánh
của ngân hàng phát hành ở nước nhà XK.
5. Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): trong trường hợp nhà XK
muốn có sự đảm bảo chắc chắn của thư tín dụng, thì một ngân hàng
có thể đứng ra xác nhận L/C theo yêu cầu của ngân hàng phát hành.
Trang 7
www.document.vn
Thông thường ngân hàng xác nhận là một ngân hàng lớn có uy tín
và trong nhiều trường hợp ngân hàng thông báo được đề nghị là
ngân hàng xác nhận L/C.
6. Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được
ngân hàng phát hành uỷ nhiệm để khi nhận được bộ chứng từ phù
hợp với những qui định trong L/C thì:
−Thanh toán (pay)cho người thụ hưởng
−Chấp nhận (accept) hối phiếu kỳ hạn
−Chiết khấu (negotiate) bộ chứng từ
−Chịu trách nhiệm trả chậm (deferrer payment) giá trị của L/C.
Trách nhiệm của ngân hàng được chỉ định là giống như ngân hàng phát
hành khi nhận được bộ chứng từ của nhà XK gửi đến.
1.2.3. Quy trình nghiệp vụ tín dụng chứng từ
Trang 8
Người
xuất khẩu
Người
nhập khẩu
NH
xuất khẩu
NH
nhập khẩu
www.document.vn
•Bước 1: Sau khi kí hợp đồng ngoại thương, nhà NK chủ động viết đơn và gửi
các giấy tờ cần thiết liên quan xin mở L/C gửi ngân hàng phục vụ mình (NH NK),
yêu cầu ngân hàng mở một L/C với một số tiền nhất định và theo đúng những điều
kiện nêu trong đơn,để trả tiền cho nhà XK.
•Bước 2: Căn cứ vào các giấy tờ xin mở L/C của nhà NK, NH NK sau khi đã
đồng ý, và nhà NK đã thực hiện ký quỹ,thì sẽ mở một L/C với một số tiền nhất định
để trả tiền cho nhà XK rồi gửi bản chính (bản gốc) cho NH phục vụ nhà XK
(NHXK)
•Bước 3: Nhận được bản chính L/C từ NHNK, NHXK phải xác nhận bằng
văn bản L/C đã nhận được rồi gửi bản chính L/C cho nhà XK.
•Bước 4 : Căn cứ vào các nội dung của L/C và những thỏa thuận đã ký trong
hợp đồng, nhà XK sẽ tiến hành giao hàng cho nhà NK.
•Bước 5: Sau khi đã tiến hành giao hàng, nhà XK phải hoàn chỉnh ngay bộ
chứng từ hàng hoá theo đúng những chỉ thị trong L/C và phát hành hối phiếu rồi
gửi toàn bộ các chứng từ này cho NHXK để xin thanh toán.
•Bước 6: NHXK nhận được bộ chứng từ từ nhà XK phải kiểm tra thật kỹ, nếu
thấy các chứng từ này mà bề ngoài của chúng không có gì mâu thuẫn với nhau thì
NH sẽ tiến hành trả tiền cho các chứng từ đó.
•Bước 7: NHXK chuyển bộ chứng từ cho NHNK và yêu cầu NH này trả tiền
cho bộ chứng từ đó.
•Bước 8: Nhận được bộ chứng từ, NHNK phải kiểm tra kỹ, nếu các chứng từ
khớp đúng, không có sự nghi ngờ thì NHNK trích tiền từ tài khoản ký quỹ mở L/C
đứng tên nhà NK để chuyển trả cho NHXK.
Trang 9
www.document.vn
•Bước 9: NHNK thông báo việc trả tiền đối với L/C cho nhà NK, đồng thời
NH chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá cho nhà NK để người đó có căn cứ đi nhận
hàng.
1.2.4. UCP - Văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phương thức TDCT
Khi thanh toán bằng phương thức TDCT, các bên XNK phải thoả thuận với
nhau về việc sử dụng UCP. UCP (The Uniform Customs and Practice for
Documentary credit) là bản quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ do Phòng thương mại quốc tế (ICC) tại Pari công bố lần đầu tiên vào năm 1933.
Từ đó đến nay UCP đã qua 5 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1951, 1962, 1974,
1983, lần cuối cùng là tháng 10 năm 1993 có hiệu lực áp dụng từ 01/01/1994.
UCP đã được hơn 175 nước áp dụng trong đó có Việt Nam. Khác với luật
quốc gia hay công ước quốc tế, UCP không tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt
động thanh toán TDCT mà mang tính chất pháp lý tuỳ ý. Các bên tham gia có quyền
lựa chọn có hay không dùng UCP để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT.
Nhưng một khi các bên đã đồng ý áp dụng UCP thì các điều khoản áp dụng của
UCP sẽ ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia.
Một điểm cần lưu ý là UCP ban hành sau không phủ nhận các nội dung của
UCP trước đó. Do đó các bên có thể thoả thuận lựa chọn một UCP nào đó, nhưng
điều quy định bắt buộc là phải dẫn chiếu nó trong L/C. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng
Anh mới có giá trị pháp lý giải quyết các tranh chấp, các bản dịch khác chỉ có giá trị
tham khảo.
Hiện nay, UCP bản sửa đổi năm 1993 số 500 được coi là hoàn chỉnh nhất và
ngày càng được nhiều ngân hàng của các nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong
thanh toán quốc tế. UCP 500 thực sự được coi là cẩm nang cho nghiệp vụ tín dụng
chứng từ.
1.2.5. Thư tín dụng (L/C) - Công cụ quan trọng của phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ
Thư tín dụng là một bản cam kết trả tiền do NH phát hành (NH mở L/C) mở
theo chỉ thị của người NK (người yêu cầu mở L/C), để trả một số tiền nhất định cho
Trang 10
www.document.vn
người XK (người thụ hưởng) với điều kiện người đó phải thực hiện đầy đủ những
quy định trong L/C.
Thư tín dụng có tính chất quan trọng vì tuy được hình thành trên cơ sở hợp
đồng ngoại thương nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp
đồng này. Một khi L/C đã được mở và được các bên chấp nhận thì cho dù nội dung
của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không cũng không làm thay đổi
quyền lợi và nghĩa vụ và của các bên có liên quan. Có nghĩa là khi thanh toán NH
chỉ căn cứ vào bộ chứng từ, khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình
thức với những điều khoản quy định trong L/C thì NH phát hành L/C phải trả tiền
vô điều kiện cho nhà XK.
Như vậy, việc thanh toán L/C không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng
hoá, NH cũng không có nghĩa vụ xem xét việc giao hàng hoá thực tế có khớp đúng
với chứng từ hay không mà chỉ căn cứ vào chứng từ do người bán xuất trình, nếu
thấy các chứng từ đó bề mặt phù hợp với các điều kiện của L/C thì trả tiền cho
người bán.
Chính những tính chất quan trọng của L/C khiến cho phương thức thanh toán
TDCT mau chóng trở thành phương thức thanh toán hữu hiệu đặc biệt trong ngoại
thương.
1.3. MỘT SỐ RỦI RO CHỦ YẾU TRONG PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN
TDCT
Trong hoạt động ngân hàng, lợi nhuận và rủi ro luôn đi đôi với nhau và có mối
quan hệ ngược chiều. Lợi nhuận càng cao thì rủi ro ngân hàng gặp phải càng lớn và
ngược lại. Trong hoạt động thanh toán TDCT, ngân hàng cũng không thể tránh khỏi
rủi ro. Các rủi ro trong thanh toán TDCT mà ngân hàng và các bên tham gia thường
gặp là:
1.3.1. Rủi ro kỹ thuật
Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy
trình thanh toán TDCT.
a. Rủi ro đối với nhà Xuất khẩu
Khi tham gia phương thức thanh toán TDCT, nhà XK hay gặp những rủi ro sau:
Trang 11
www.document.vn
1.Khi nhận được L/C từ NH thông báo, nếu nhà XK kiểm tra các điều kiện
chứng từ không kĩ, chấp nhận cả những yêu cầu bất lợi mà nhà XK không thể đáp
ứng được trong khâu lập chứng từ sau này. Khi các yêu cầu đó không được thoả
mãn, NH phát hành từ chối bộ chứng từ và không thanh toán. Lúc đó, nhà NK sẽ có
lợi thế để thương lượng lại về giá cả nằm ngoài các điều khoản của L/C và nhà XK
sẽ gặp bất lợi.
2.Trong thanh toán TDCT, ngân hàng mở L/C đứng ra cam kết thanh toán cho
người XK khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C, NH chỉ làm
việc với các chứng từ quy định trong L/C. Phương thức thanh toán TDCT đòi hỏi sự
chính xác tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán với nội dung quy định trong L/C.
Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong việc lập chứng từ thì nhà XK cũng có thể bị NH mở
L/C và người mua bắt lỗi, từ chối thanh toán. Do đó, việc lập bộ chứng từ thanh
toán là một khâu quan trọng và rất dễ gặp rủi ro đối với nhà XK.
Một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu
sau :
–Các chứng từ phải phù hợp với luật lệ và tập quán thương mại mà hai nước
người mua và người bán đang áp dụng và được dẫn chiếu trong L/C.
–Nội dung và hình thức của các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng
yêu cầu đề ra trong L/C.
–Những nội dung và các số liệu có liên quan giữa các chứng từ không được
mâu thuẫn với nhau, nếu có sự mâu thuẫn giữa các chứng từ mà từ đó người ta
không thể xác định một cách rõ ràng, thống nhất nội dung thuộc về tên hàng, số
lượng, trọng lượng, giá cả, tổng trị giá, tên của người hưởng lợi…thì các chứng từ
đó sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán vì bộ chứng từ đó mâu thuẫn với nhau
–Bộ chứng từ phải được xuất trình tại địa điểm qui định trong L/C và trong
thời hạn hiệu lực của L/C.
Trên thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ, thường
gặp vẫn là:
Trang 12
www.document.vn
+Lập chứng từ sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ của các bên tham gia, của hãng
vận tải
+Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng.
+Các sai sót trên bề mặt chứng từ : số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị của
L/C; các chứng từ không ghi số L/C, không đánh dấu bản gốc; các chứng từ không
khớp nhau hoặc không khớp với nội dung của L/C về số lượng, trọng lượng, mô tả
hàng hoá…; các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ hàng,
về hãng vận tải, về phương thức vận chuyển hàng hóa…
Tất cả những sai sót trên đều là những nguyên nhân gây nên rủi ro cho nhà XK
khi lập bộ chứng từ thanh toán.
Ngoài ra, do sự khác biệt về tập quán, luật lệ ở mỗi nước cho nên dễ dẫn đến
những sai sót khi nhà XK hoàn tất bộ chứng từ hàng hoá để gửi NH xin thanh toán.
3. Nếu nhà XK xuất trình bộ chứng từ không phù hợp với L/C thì mọi khoản
thanh toán hay chấp nhận có thể đều bị từ chối, và nhà XK phải tự xử lý hàng hoá
như dỡ hàng, lưu kho cho đến khi vấn đề được giải quyết hoặc phải tìm người mua
mới, bán đấu giá hay chở hàng về quay về nước. Đồng thời, nhà XK phải chịu
những chi phí như lưu tàu quá hạn, phí lưu kho… trong khi đó không biết rõ lập
trường của nhà NK là sẽ đồng ý hay từ chối nhận hàng vì lý do bộ chứng từ có sai
sót.
4. Nếu NH phát hành mất khả năng thanh toán, thì cho dù bộ chứng từ xuất
trình là hoàn hảo thì cũng không được thanh toán.
5. Thư tín dụng có thể huỷ ngang có thể được NH phát hành sửa đổi, bổ sung
hay huỷ bỏ bất cứ lúc nào trước khi nhà XK xuất trình bộ chứng từ mà không cần sự
đồng ý của nhà XK.
b. Rủi ro đối với nhà Nhập khẩu
1.Trong thanh toán TDCT, việc thanh toán của NH cho người thụ hưởng chỉ
căn cứ vào bộ chứng từ xuất trình mà không căn cứ vào việc kiểm tra hàng hoá. NH
chỉ kiểm tra tính chân thật bề ngoài của chứng từ, mà không chịu trách nhiệm về
tính chất bên trong của chứng từ, cũng như chất lượng và số lượng hàng hoá. Như
Trang 13
www.document.vn
vậy sẽ không có sự đảm bảo nào cho nhà NK rằng hàng hoá sẽ đúng như đơn đặt
hàng hay không. Nhà NK có thể nhận được hàng kém chất lượng hoặc bị hư hại
trong quá trình vận chuyển mà vẫn phải hoàn trả đầy đủ tiền thanh toán cho NH phát
hành.
2.Khi nhà NK chấp nhận bộ chứng từ hàng hoá sẽ có nguy cơ gặp rủi ro. Bộ
chứng từ là cơ sở pháp lý đầu tiên về tính đúng đắn của hàng hoá. Nếu nhà NK
không chú ý kiểm tra kỹ bộ chứng từ (từ lỗi, câu chữ, số lượng các loại chứng từ, cơ
quan có thẩm quyền cấp các loại giấy chứng nhận…) mà chấp nhận bộ chứng từ có
lỗi sẽ bị thiệt hại và gặp khó khăn trong việc khiếu nại sau này.
3.Một rủi ro mà nhà NK hay gặp là hàng đến trước bộ chứng từ, nhà NK chưa
nhận được bộ chứng từ mà hàng đã cập cảng. Bộ chứng từ bao gồm vận đơn, mà
vận đơn lại là chứng từ sở hữu hàng hoá nên thiếu vận đơn thì hàng hoá không được
giải toả. Nếu nhà NK cần gấp ngay hàng hoá thì phải thu xếp để NH phát hành phát
hành một thư bảo lãnh gửi hãng tàu để nhận hàng. Để được bảo lãnh nhận hàng, nhà
NK phải trả thêm một khoản phí cho NH. Hơn nữa, nếu nhà NK không nhận hàng
theo qui định thì tiền bồi thường giữ tàu quá hạn sẽ phát sinh.
c. Rủi ro đối với ngân hàng phát hành
1.Trong nghiệp vụ mở L/C, nếu NH phát hành kiểm tra không kĩ đơn xin mở
L/C sẽ dẫn đến việc chấp nhận cả những điều khoản hàm chứa rủi ro cho NH sau
này.
2.Khi nhận được bộ chứng từ xuất trình, nếu NH phát hành trả tiền hay chấp
nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn mà không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ
chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, nhà NK không chấp nhận, thì NH không thể đòi
tiền nhà NK.
3.Trong trường hợp hàng đến trước bộ chứng từ thì NH phát hành hay được
yêu cầu chấp nhận thanh toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ.
Nếu không có sự chấp nhận trước của người NK về việc hoàn trả, thì NH phát hành
sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, khi đó nhà NK không chấp nhận và NH sẽ
không truy hoàn được tiền từ nhà NK.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét