Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Giai phap nang cao chat luong dich vu thanh toan tai VietcomBank Dalat

làm xuất hiện một hình thức thu hút tiền gửi thanh toán của các Ngân hàng bằng cách trả lãi
cho các khoản tiền gửi thanh toán kể cả không kỳ hạn. Việc xuất hiện tài khoản tiền gửi
thanh toán có hưởng lãi ban đầu cũng có nhiều tranh cãi, từng có quan điểm cho rằng trả lãi
làm tăng rủi ro cho hoạt động ngân hàng. Nhìn vào thực tế có thể thấy tài khoản tiền gửi có
hưởng lãi cũng có hàm chứa vấn đề, xuất phát từ tính chất không ổn định của tiền gửi thanh
toán cùng với lãi tiền gửi làm cho dự báo về khối lượng nguồn vốn và nhu cầu chi trả trở
lên khó đo lường, thêm nữa là kỳ hạn tiềm năng của tiền gửi thanh toán cũng là ngắn nhất
và khó dự báo nhất.
1.1.3.2. Dịch vụ thanh toán bằng Séc (Cheque, Check)
Khái niệm
Séc là lệnh trả tiền của chủ khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy
định, yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của mình
để trao cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc.
Như vậy, chủ thể tham gia thanh toán séc bao gồm người phát hành, người thụ
hưởng và ngân hàng, mỗi bên có quyền lợi và nghĩa vụ nhất định trong thanh toán séc.
Theo bản công ước chung về séc được ký năm 1931 tại Hội nghị quốc tế Genève:
 Người ký phát là người lập và ký phát hành hối phiếu đòi nợ, séc.
 Người bị ký phát là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi
nợ, séc theo lệnh của người ký phát.
 Người chấp nhận là người bị ký phát sau khi ký chấp nhận hối phiếu đòi nợ.
 Người thụ hưởng là người sở hữu công cụ chuyển nhượng với tư cách của một trong
những người sau đây:
o Người được nhận thanh toán số tiền ghi trên công cụ chuyển nhượng theo chỉ định
của người ký phát, người phát hành;
o Người nhận chuyển nhượng công cụ chuyển nhượng theo các hình thức chuyển
nhượng quy định tại Luật này;
o Người cầm giữ công cụ chuyển nhượng có ghi trả cho người cầm giữ.
 Người phát hành là người lập và ký phát hành hối phiếu nhận nợ.
 Người có liên quan là người tham gia vào quan hệ công cụ chuyển nhượng bằng cách
ký tên trên công cụ chuyển nhượng với tư cách là người ký phát, người phát hành,
người chấp nhận, người chuyển nhượng và người bảo lãnh.
5
 Người thu hộ là ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác được phép của
Ngân hàng Nhà nước làm dịch vụ thu hộ công cụ chuyển nhượng.
Bắt đầu từ ngày 01/04/1997, chế độ thanh toán séc mới theo nghị định 30/CP của
Chính phủ và thông tư hướng dẫn số 07- TT/NH1 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
thanh toán séc bao gồm những loại sau:
Séc chuyển khoản
Là lệnh trả của người phát hành séc đối với Ngân hàng phục vụ mình về việc trích
trả tiền từ tài khoản của mình cho người thụ hưởng có tên ghi trên tờ séc.
Séc chuyển khoản thường được áp dụng đối với những khách hàng tín nhiệm lẫn
nhau, có quan hệ làm ăn lâu dài, thường xuyên. Chính vì vậy, séc chuyển khoản bao giờ
cũng được hạch toán theo nguyên tắc: Nợ trước – Có sau.
Séc bảo chi
Là tờ séc thông thường được Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành, bảo đảm khả
năng chi trả bằng cách trích từ tài khoản tiền gửi đưa vào một tài khoản riêng (tài khoản
đảm bảo séc bảo chi) và đánh dấu séc bảo chi lên tờ séc trước khi giao tờ séc cho khách
hàng.
Đối tượng áp dụng là thanh toán tiền hàng, dịch vụ do yêu cầu của đơn vị bán hoặc
theo quyết định của Ngân hàng đối với chủ tài khoản vi phạm quy định của phát hành séc.
Tờ séc nộp vào nếu khách hàng mở tài khoản cùng một Ngân hàng, một hệ thống thì
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng có quyền ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ
hưởng sau khi kiểm tra thấy rằng tờ séc đó là hợp lệ. Sau đó báo “Nợ” cho Ngân hàng phát
hành séc để ghi “Nợ” vào tài khoản đảm bảo thanh toán séc bảo chi. Trường hợp hai Ngân
hàng khác hệ thống thì không được phép ghi “Có” ngay mà phải giao nhận chứng từ đồng
thời tại phiên giao dịch để thực hiện ghi “Nợ” trước – “Có” sau.
Ngoài cách phân loại séc như trên, séc còn được phân loại theo hình thức chuyển
nhượng. Theo đó có các loại séc:
 Séc ký danh: được ghi rõ tên người hưởng thụ trên séc.
 Séc vô danh: không ghi rõ tên người hưởng thụ trên tờ séc, bất cứ ai cầm tờ séc
cũng có thể nhận được đủ số tiền ghi trên tờ séc tại Ngân hàng.
 Séc theo lệnh: ghi rõ trả tiền theo lệnh của người thụ hưởng, séc này được
chuyểnnhượng theo thủ tục ký hậu.
6
1.1.3.3. Dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế (remittance, remise).
Trong việc tổ chức thanh toán giữa các tổ chức tín dụng ở các quốc gia khác nhau để
thực hiện các khoản thu chi liên quan đến hoạt động kinh tế chính trị – xã hội đều diễn ra
qua việc xử lý các giấy tờ thanh toán nhất định gọi là nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Phương thức chuyển tiền
Trong thanh toán quốc tế, một khách hàng (người trả tiền) có thể yêu cầu Ngân hàng
phục vụ mình chuyển một số tiền cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm
nhất định bằng hai cách: Chuyển tiền điện hay chuyển tiền bằng thư. Phân biệt nội dung 2
cách này là thời gian nhanh hay chậm, phí cao hay thấp.
Nếu khách hàng chuyển tiền ra nước ngoài thì việc thanh toán thực hiện bằng ngoại
tệ, nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, các dịch vụ liên quan đến xuất
nhập khẩu hàng hoá…
Phương thức uỷ thác thu hay nhờ thu:
Đây là phương thức thanh toán, trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn tất nghĩa vụ
xuất chuyển hàng hoá cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ
số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Phương thức nhờ thu gồm
nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
Phương thức tín dụng chứng từ:
Trên cơ sở hợp đồng Thương mại đã ký kết, người nhập khẩu lập thủ tục xin mở thư
tín dụng.Ngân hàng mở thư tín dụng thông báo nội dung và chuyển thư tín dụng qua Ngân
hàng phục vụ người xuất khẩu là Ngân hàng thông báo.Ngân hàng thông báo, báo tín cho
người xuất khẩu về nội dung thư tín dụng đã mở.
Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn
trả tiền cho Ngân hàng, nếu không, có quyền từ chối trả tiền.
Phương thức thư tín dụng:
Các loại thư tín dụng thương mại chủ yếu gồm: Thư tín dụng có thể huỷ ngang; Thư
tín dụng không thể huỷ ngang; Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận; Thư tín dụng
chuyển nhượng. Đây là một nghiệp vụ được các Ngân hàng đặc biệt quan tâm nhằm đáp
ứng nhu cầu kinh doanh của khách hàng trong điều kiện quốc tế hoá thị trường hiện nay.
7
Ngoài những phương thức trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
khác (biên lai tín thác), hoặc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán, chiết khấu bộ
chứng từ thanh toán….Việc thực hiện giao dịch có thể qua đường thư, telex hoặc mạng
máy tính qua hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial
Telecommunication): Hiệp hội tài chính viễn thông liên Ngân hàng toàn cầu.
1.1.3.4. Uỷ nhiệm thu – nhờ thu và Uỷ nhiệm chi – lệnh chi:
Uỷ nhiệm thu hoặc nhờ thu:
Uỷ nhiệm thu là lệnh viết trên mẫu in sẵn, đơn vị bán lập Uỷ nhiệm thu nhờ Ngân
hàng phục vụ mình thu hộ tiền sau khi đã hoàn thành việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho
đơn vị mua theo thoả thuận sau hợp đồng.
Uỷ nhiệm thu chủ yếu được sử dụng mua bán giữa các bên tín dụng lẫn nhau, bên
mua bà bên bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm thu đồng
thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng của bên thụ hưởng để có căn cứ thực
hiện Uỷ nhiệm thu.
Uỷ nhiệm thu được lập theo mẫu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó bên
thụ hưởng phải ghi đầy đủ các yếu tố và ký tên, đóng dấu của đơn vị trên tất cả các Uỷ
nhiệm thu. Khi nhận được Uỷ nhiệm thu trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng phục
vụ bên mua trả tiền ngay cho người thụ hưởng để hoàn thành tất việc thanh toán. Nếu tài
khoản của bên trả tiền không đủ số tiền thanh toán thì bên trả tiền sẽ bị phạt vì chậm trả
tiền. Mức phạt theo quy định giữa bên mua và bên bán tuỳ theo thoả thuận được ghi trong
hợp đồng, thông thường được tính như sau:
Số tiền phạt chậm trả = Số tiền ghi trên UNT * Số ngày trả chậm * Tỷ lệ phạt
Uỷ nhiệm chi - lệnh chi
Uỷ nhiệm chi là lệnh của chủ tài khoản, được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng
yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích sẵn một số tiền nhất định trên tài khoản củamình trả
cho người thụ hưởng có tài khoản tại Ngân hàng.
Uỷ nhiệm chi ra đời khá lâu, được sử dụng phổ biến trong quan hệ thánh toán tiền
hàng hoá, dịch vụ giữa người mua và người bán có mở tài khoản tại tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán.
Uỷ nhiệm chi được áp dụng trong thanh toán hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền
của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán,
8
hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Điều kiện, thủ tục thanh toán, thời hạn thực hiện lệnh chi hoặc Uỷ nhiệm chi do tổ
chức cung ứng dịch vụ thoả thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy
định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
1.1.3.5. Dịch vụ thanh toán tín dụng chứng từ:
Khái niệm:
Thư tín dụng là bức thư do ngân hàng viết ra theo yêu cầu của ngườimua hàng
(người xin mở thư tín dụng), cam kết trả tiền cho người bán một số tiềntrong một thời gian
nhất định, với điều kiện người này thực hiện đúng và đầy đủnhững điều kiện quy định
trong bức thư đó .
Khi áp dụng phương thức này, các bên tham gia đều phải dựa vào: “Quy tắc
và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” ” (Unifrom customs and practicefor
documentary credit) do phòng Thương mại quốc tế Pais ban hành, mang ký hiệu ấn phẩm
CPU 500.
Theo thể thức này, khi bên bán đã sẵn sàng giao hàng, bên mua phải ký
quỹ vào Ngân hàng một số tiền đủ để mở thư tín dụng thanh toán tiền hàng.
Quy trình mở và thanh toán:
Mở thư tín dụng tại Ngân hàng bên mua: Đơn vị mua lập 06 liên giấy mở thư tín
dụng theo quy định của ngân hàng.
Mỗi thư tín dụng chỉ được dùng để thanh toán cho một khách hàng địa phương.
Mức tối thiểu của mỗi thư tín dụng là 10 triệu đồng, thời hạn hết hiệu lựccủa mỗi
thư tín dụng là 3 tháng. Chỉ thanh toán 1 lần. Nếu không sử dụng hết thìtrả lại tài khoản
đơn vị mở thư tín dụng, thư tín dụng không được thanh toán bằngtiền mặt.
Kế toán Ngân hàng bên mua sử dụng 06 liên như sau:
 Liên 1: Ghi nợ tài khoản đơn vị mua (mở thư tín dụng)
 Liên 2: Báo nợ đơn vị mua
 Liên 3: Ghi có TK 4662 - tiền ký gửi mở thư tín dụng
 Liên 4,5,6: Gửi Ngân hàng bên bán
1.1.3.6. Dịch vụ thanh toán thẻ.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán hiện đại vì nó gắn liền với kỹthuật tin
học ứng dụng trong Ngân hàng.Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán chokhách
hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ và để lĩnh tiền mặt
tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền tự động.Có 3 loại thẻ ở Việt Nam
9
hiện nay gọi chung là Card thanh toán:
 Thẻ ghi Nợ: Là loại thẻ không phải lưu ký tiền vào tài khoản riêng ở ngânhàng, áp
dụng với khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên,có tín nhiệm với
Ngân hàng và do ngân hàng phát hành. Đây còn được gọi làthẻ loại A.
 Thẻ ký quỹ thanh toán: Áp dụng rộng rãi cho mọi đối tượng khách hàng.
 Muốn sử dụng lại thẻ này thì khách hàng phải lưu ký một khoản tiền gửi vào tài
khoản riêng ở Ngân hàng (số tiền này chính là hạn mức thẻ). Khách hàngchỉ được
sử dụng thanh toán trong phạm vi số tiền lưu ký. Thẻ ký quỹ cònđược gọi là thẻ loại
B.
 Thẻ tín dụng: Áp dụng cho khách hàng có đủ điều kiện ngân hàng đồng ýcho vay.
Số tiền vay chính là hạn mức thẻ, khách hàng chỉ được phép sửdụng trong phạm vi
hạn mức cho vay trên thẻ. Ngân hàng phát hành thẻ cótrách nhiệm thanh toán ngay
số tiền trên biên lai do ngân hàng đại lý chuyển đến.
1.1.4. Chức năng thanh toán của ngân hàng:
Chức năng trung gian tín dụng:
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại.
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại đóng vai trò là
cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, Ngân hàng
thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng
lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi
ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Chức năng trung gian thanh toán:
Ở đây Ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền
gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách
hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
Các Ngân hàng thương mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán
tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…
Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ
đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp
10
người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để
thực hiện các khoản thanh toán.
Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy
nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
Chức năng tạo tiền:
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của Ngân hàng thương
mại. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát
triển của mình, các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của
mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng
thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại
được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch,
được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống
Ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng
nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng mà
hoạt động chủ yếu của nó là kinh doanh tiền tệ.
1.2 Vai trò của dịch vụ thanh toán:.
Đối với các doanh nghiệp:
Sự ra đời tất yếu của các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng thương mại đã thể hiện
tầm quan trọng, vai trò của dịch vụ thanh toán đối với các chủ thể trong nền kinh tế:
+ Các chủ thể của các giao dịch không phải mất những điều kiện cần thiết để thực
hiện thanh toán trực tiếp.
+ Không nhất thiết phải sử dụng tiền mặt vì vậy có thể giảm đi các chi phí không
cần thiết.
+ Tránh được nhiều rủi ro tài chính trong thanh toán trực tiếp.
+ Các chủ thể kinh tế ở phạm vi địa lý xa nhau vẫn có thể đảm bảo được tính an toàn
của thanh toán ngay cả khi không có đầy đủ thông tin về đối tác của mình trong giao dịch.
Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng:
11
Hoạt động kinh doanh ngân hàng hiện đại ngày nay không chỉ tập trung vào các dịch
vụ truyền thống. Các dịch vụ hiện đại ngày càng được quan tâm và dần chiếm tỷ trọng về
thu nhập trong lĩnh vực ngân hàng. Ngày nay, thanh toán là một chức năng quan trọng của
ngân hàng thương mại, nó đang dần chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cụ thể:
+ Mang lại mức doanh thu, lợi nhuận trong tổng doanh thu và lợi nhuận của ngân
hàng, thực tế cho thấy xu hướng ngày càng tăng về vai trò của dịch vụ thanh toán.
+ Phát triển dịch vụ thanh toán trở thành chiến lược khách hàng, chiến lược thị
trường của các ngân hàng thông qua hệ thống dịch vụ thanh toán các ngân hàng xác lập
được vị thế của mình trên thị trường.
+ Là công cụ góp phần tạo sự an toàn trong kinh doanh ngân hàng: Đây là mảng
nghiệp vụ ít rủi ro hơn so với tín dụng truyền thống. Việc gia tăng hoạt động dịch vụ thanh
toán giúp ngân hàng không bị phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực nhiều rủi ro khác nhu tín dụng
dài hạn.
+ Dịch vụ thanh toán còn là một phần không thể thiếu trong chiến lược cung ứng
dịch vụ trọn gói cho khách hàng, là điều kiện để khách hàng có thể thoả mãn với đầy đủ
các dịch vụ đáp ứng mọi yêu cầu.
+ Là một lĩnh vực yêu cầu sự thay đổi và ứng dụng công nghệ hiện đại chính vì
thế mà nó là môi trường để cho công nghệ ngân hàng phát triển, làm tiền đề để hiện đại hoá
ngân hàng.
1.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dịch vụ và chất lượng dịch vụ thanh toán
ngân hàng:
1.3.1. Khả năng thanh khoản (liquidity):
Khả năng thanh khoản là vấn đề hết sức căn bản trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng. Vấn đề đối với bất cứ một ngân hàng
nào là phải duy trì một mức thanh khoản hợp lý trên cơ sở cân nhắc nhu cầu thanh toán (chi
trả) và chi phí của khoản dự trữ. Một mức dự trữ tiền mặt, các tài sản có tính thanh khoản
cao sẽ đáp ứng tốt khả năng chi trả thường xuyên và bất thường tuy nhiên nó cũng đòi hỏi
một chi phí cao, đôi khi gánh nặng chi phí đi kèm với khả năng thanh khoản cao.
Không chỉ phục vụ cho các dịch vụ thanh toán của khách hàng, ngân hàng có nhiều
nhu cầu đòi hỏi khả năng thanh toán hợp lý. Xác định nhu cầu thanh khoản là bước đầu tiên
trong chức năng quản lý tính thanh khoản của ngân hàng, bước tiếp theo là việc xác định
nguồn cung. Cung và cầu thanh khoản được khái quát như sau:
12
Bảng 1.1. Cung cầu thanh khoản
Cung vốn thanh khoản Cầu thanh khoản
- Tiền gửi không kỳ hạn trên các tài
khoản vãng lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
- Doanh thu từ hoạt động dịch vụ thanh
toán.
- Thanh toán nợ của khách hàng
- Bán tài sản ngân hàng
- Tiền vay từ thị trường tiền tệ
- Khách hàng rút tiền từ tài khoản tiền
gửi bao gồm: thời hạn và không thời
hạn.
- Chuyển tiền phục vụ các hoạt động
thanh toán của khách hàng.
- Các khoản chi hoạt động dịch vụ thanh
toán.
- Các khoản vay phi tiền gửi, vay vốn
khác.
- Chi phí cho các hoạt động kinh doanh
khác.
- Thanh toán cổ tức (nếu có)
Như vậy, nhu cầu thanh khoản của hoạt động dịch vụ thanh toán đến từ: Các khoản rút
tiền gửi, các khoản chuyển tiền của khách hàng, các khoản chi cho hoạt động cung ứng.
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra công thức xác định chỉ tiêu “trạng thái thanh khoản ròng -
NLP”
NLP = (Lượng tiền gửi + Doanh thu bán dịch vụ + thanh toán nợ của khách hàng +
Vay nợ trên thị trường) – (Tiền rút ra gồm tiền chuyển khoản + Quy mô vay được
chấp nhận + Thanh toán nợ của ngân hàng + Chi hoạt động + Thanh toán cổ tức)
Nhu cầu và cung thanh khoản phục vụ hoạt dịch vụ thanh toán không tách rời cung
cầu chung của toàn ngân hàng, việc quản lý tính thanh khoản xoay quanh hai nội dung:
+ Rất hiếm và gần như không thể tồn tại trạng thái cầu và cung thanh khoản là trùng
khớp và do đó ngân hàng luôn phải đối mặt với sự thặng dư hoặc thâm hụt vốn thanh
khoản.
13
+ Giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời có sự đánh đổi, với giả định các
yếu tố khác không đổi, nếu ngân hàng càng tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu thanh toán
thì khả năng sinh lợi dự kiến càng thấp.
Có rất nhiều lý do khiến ngân hàng luôn phải đối mặt với các vấn đề thanh khoản
trong đó phải kể đến những lý do sau đây:
Thứ nhất, ngân hàng huy động lượng lớn từ các nguồn ngắn hạn để tài trợ cho các
khoản tín dụng dài hạn, đó là nguyên nhân mất cân bằng về kỳ hạn giữa vốn và tài sản.
Thứ hai, tính nhạy cảm với lãi suất, sự thay đổi lãi suất sẽ dẫn đến sự thay đổi quy mô
khoản tiền gửi, tiền vay theo đó nó làm thay đổi giá trị tài sản mà ngân hàng nắm giữ. Như
vậy, lãi suất làm thay đổi cả nhu cầu và cung thanh khoản. Hơn nữa, chi phí vốn của ngân
hàng cũng sẽ thay đổi làm thay đổi quyết định về trạng thái thanh khoản ròng.
Thứ ba, là yếu tố đặc trưng của hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, ngân hàng
luôn nắm giữ những khoản tiền gửi vô thời hạn như tiền gửi thanh toán, séc bảo chi do đó
các yêu cầu thanh toán của khách hàng là tức thời.
1.3.2. Tính bảo mật, an toàn (độ tin cậy) trong giao dịch thanh toán:
Bảo mật là yêu cầu không thể thiếu trong bất cứ một dịch vụ ngân hàng nào, trong
lĩnh vực thanh toán ngân hàng, bảo mật được biểu hiện chủ yếu trên giác độ bảo mật thông
tin của các giao dịch thanh toán.
Bảo mật thông tin giao dịch thanh toán đối với ngân hàng được xem như là bí mật
kinh doanh, cũng giống như bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh thông thường thông tin
về giao dịch cần được đảm bảo. Mặt khác, bí mật thông tin khách hàng là nghĩa vụ của
ngân hàng. Nếu pháp luật không có quy định về đảm bảo bí mật thông tin khách hàng thì
các ngân hàng vẫn phải xem bí mật thông tin là một yếu tố của chất lượng và phải được
đảm bảo.
Bí mật thông tin được thể hiện ở các khía cạnh:
- An toàn dữ liệu và hệ thống thông tin đối ngoại.
- Bí mật trong hệ thống thông tin nội bộ bao gồm việc xử lý giao dịch, lưu trữ
thông tin, người xử lý giao dịch.
- An toàn về quyền hưởng, đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chi trả trong giao dịch
thanh toán.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét