Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

CHIẾN LƯỢC CÔNG NGHIỆP HOÁ NÔNG THÔN VIỆT NAM : PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ THỰC TIỄN MIỀN TRUNG


THỜI ÐẠI số 8

64
giới. Ranis and Stewart (1993) gọi những hàng công nghiệp nầy là
sản phẩm Z hiện đại, phân biệt với sản phẩm Z truyền thống trong
phân tích của Hymer and Resnick (1969). Ở đây ta gọi là Ma.
4

tính chất hướng ngoại của các hàng công nghiệp nầy, Ma thường
được sản xuất tại các thị xã miền quê nơi giao thông tương đối
thuận tiện, trong khi Mt thường được thấy tại các thôn làng.
Như vậy, khu vực công nghiệp được chia thành 3 nhóm : Mm,
Ma và Mt, mỗi nhóm có một số đặc tính riêng nhưng cũng có
những cái chung. Mm và Ma đều là sản phẩm công nghiệp hiện đại
nhưng khác về mặt địa lý. Ma và Mt giống nhau về mặt địa lý
nhưng khác về phương thức sản xuất và thị trường tiêu thụ. Công
nghiệp hoá nông thôn là vấn đề làm sao phát triển nhanh Ma và
chuyển hoán Mt sang Ma.
II. Quá trình khởi động công nghiệp hoá nông thôn:
Các loại hàng công nghiệp truyền thống ở nông thôn (Mt) có
thể chia làm 2 loại : Một là những loại chịu sự cạnh tranh trực tiếp
với Mm và Ma vì cùng chủng loại, ta tạm gọi là Mt-1. Hai là những
loại không trực diện với cạnh tranh này vì sản xuất những mặt
hàng đặc biệt (chẳng hạn đồ gốm Bát Tràng hoặc sản phẩm của các
làng nghề khác), ta tạm gọi là Mt-2. Trong quá trình công nghiệp
hoá, Mt-1 sẽ dần dần bị đào thải nhưng trong đó cũng có một số
đơn vị sản xuất tiếp cận được với thị truờng, công nghệ và vốn, và
tự mình chuyển hoán sang khu vực Ma. Nhưng dù trường hợp nào
đi nữa, quá trình công nghiệp hoá nông thôn sẽ làm cho Mt-1 dần
dần mất đi, nhường chỗ cho Ma. Còn Mt-2 không bị cạnh tranh
nhưng để lớn mạnh (mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động hơn
và cung cấp ra nước ngoài) phải tiếp cận được với thị truờng, vốn
và công nghệ. Để khởi động khu vực Ma phát triển cũng cần vốn,
công nghệ và thị trường.
Như vậy, vốn, công nghệ và thị trường là những yếu tố cơ bản để
thực hiện công nghiệp hoá nông thôn. Nhưng còn hai yếu tố cơ bản
nữa là thông tin và tổ chức. Thực ra, hai yếu tố thông tin và tổ chức
nầy được giải quyết thì thị trường và công nghệ cũng không còn là
vấn đề vì khi đã có thông tin về thị trường và công nghệ thì tổ chức

Trần Văn Thọ, Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam…

65
đóng vai trò chính yếu trong việc đưa công nghệ về nông thôn và
đưa sản phẩm từ nông thôn ra thị trường. Tổ chức cũng là yếu tố
giúp huy động vốn và giúp cải tiến sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm cho các chủ thể sản xuất ở 2 khu vực Ma và Mt-2.
Tóm lại ta rút ra được 3 yếu tố cơ bản để khởi động và tiến
hành công nghiệp hoá nông thôn là vốn, thông tin và tổ chức.
Về vốn, kinh nghiệm của Đài Loan, Trung Quốc cho thấy vốn
tích luỹ từ nội bộ khu vực nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng.
Tại Đài Loan, như Oshima (1985), Fei, Ranis and Kuo (1979) và
nhiều tác giả khác phân tích, khu vực nông nghiệp phát triển nhờ
tăng năng suất lao động và năng suất đất canh tác, đa dạng hoá
nông sản phẩm theo hướng sản xuất các mặt hàng có giá trị cao
hướng vào xuất khẩu (rau, quả, ). Song song với quá trình nầy,
nhờ giao thông giữa thành thị và nông thôn phát triển, nông dân
tăng thu nhập phi nông nghiệp qua việc làm thêm ở các thị trấn lân
cận. Khu vực nông nghiệp phát triển và tỉ lệ thu nhập ngoài nông
nghiệp tăng làm tăng mức sống và tỉ lệ tiết kiệm của người dân
nông thôn. Tiền tiết kiệm nầy lại được huy động vào việc phát triển
công nghiệp nông thôn.
Tại Trung Quốc, nông nghiệp cũng đóng vai trò tạo vốn ban
đầu cho công nghiệp nông thôn. Như Lin and Pao (2001), OECD
(1998) và nhiều nghiên cứu khác cho thấy, trong giai đoạn đầu của
cuộc cải cách (1978-1984), một mặt nông dân được giải phóng ra
khỏi những trói buộc của cơ chế công xã nhân dân, xác lập lại cơ
chế nông nghiệp theo đơn vị hộ gia đình (family farming system),
và mặt khác, giá cả nông sản cũng được tự do hoá, không còn bị
khống chế giá trần (ceiling prices) nên năng suất nông nghiệp và
thu nhập của nông dân tăng nhanh, tạo ra một thặng dư nông
nghiệp (agriculturral surplus) đáng kể. Thặng dư nông nghiệp nầy
làm cho tiết kiệm nông thôn tăng nhanh, góp phần tạo tiền đề cho
các xí nghiệp hương trấn (town and village enterprises, TVEs) phát
triển mạnh mẽ trong giai đoạn sau (từ 1984 trở đi).
Cả hai trường hợp Đài Loan và Trung Quốc cho thấy là nông
nghiệp đi trước một bước và tạo tiền đề về vốn và thị trường (thu
nhập nông dân tăng làm tăng nhu cầu hàng công nghiệp tiêu dùng)
cho công nghiệp nông thôn. Đây là bước đi vững chắc.

THỜI ÐẠI số 8

66
Tuy nhiên, trong thời đại toàn cầu hoá như ngày nay, dưới một
số điều kiện nhất định, nông nghiệp và công nghiệp hoá nông thôn
có thể xảy ra đồng thời, nghĩa là không cần hoặc không nên đợi
nông nghiệp phát triển trước một thời gian. Điểm nầy dẫn ta trở lại
2 yếu tố thông tin và tổ chức đã nói ở trên. Nếu khơi dậy được một
kênh thông tin nối liền nông thôn với đô thị là nơi tiếp cận thường
xuyên với thị trường vốn, thị trường công nghệ và thị trường hàng
hoá quốc tế thì việc huy động vốn ban đầu và tìm thị trường tiêu
thụ cho công nghiệp nông thôn không phải là khó khăn. Việc khơi
dậy các kênh thông tin cần đến vai trò của chính phủ trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng và đưa ra các chính sách kích thích các tác nhân
(agent) xuất hiện đảm nhận vai trò tổ chức nối các cơ hội về công
nghiệp ở nông thôn với các thị trường vốn, công nghệ và hàng hoá
thế giới một cách trực tiếp hoặc thông qua các thị trường ở đô thị.
Vậy những tác nhân nầy cụ thể là gì ?
Trở lại nội dung các loại hình công nghiệp nông thôn ta đã
phân tích ở Tiết I. Các ngành có công nghệ truyền thống và có một
chỗ đứng nhất định trên thị trường trong nước nhờ thanh danh
(reputation) đã được xác lập (Mt-2) chỉ cần tác nhân là những
thương gia hoặc công ty thương mại đã có hoặc có khả năng xây
dựng các mạng lưới tiếp thị trong và ngoài nước. Các tác nhân nầy
có thể liên doanh với các công ty thương mại nước ngoài để tăng
khả năng tổ chức, khả năng chịu đựng rủi ro và uy tín trên thị
trường vốn. Với các khả năng nầy, các tác nhân thương mại và tổ
chức trung gian sẽ giúp huy động vốn, cải tiến mẫu mã, phẩm chất
và tăng năng lực tiếp cận thị trường cho các chủ thể sản xuất hàng
công nghiệp Mt-2.
Hàng công nghiệp Ma đa dạng hơn, có thể phân thành các loại
sau. Thứ nhất, các ngành chế biến nguyên liệu tại chỗ như thực
phẩm, đồ uống, đường, tơ sợi, vải vóc, trong đó có trường hợp cải
thiện từ các cơ sở truyền thống (Mt-1) đã có. Thứ hai, các ngành
cũng có sản xuất tại các đô thị nhưng nông thôn có lợi thế về lao
động như linh kiện, bộ phận phụ tùng xe máy, Nhìn từ vấn đề
chất lượng, ta cũng có thể phân làm 2 loại. Một là những sản phẩm
đơn giản, công nghệ, mẫu mã đã được tiêu chuẩn hoá, hầu như

Trần Văn Thọ, Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam…

67
không hoặc ít biến động về thị hiếu, như y phục dùng cho công
nhân ở hiện trường, một số tạp hoá dùng cho sinh hoạt gia đình.
Các ngành nầy không cần nhiều vốn, khó khăn về công nghệ cũng
ít. Cái khó chỉ là vấn đề tiếp thị (marketing), tìm thị trường ổn định.
Trong trường hợp nầy, chỉ cần những tác nhân như thương nhân
địa phương hoặc thương nhân ở các đô thị đứng ra nối kết nông
thôn với thị trường. Hai là những ngành công nghiệp đòi hỏi tiêu
chuẩn mẫu mã cao, phẩm chất cần được chú trọng, công nghệ cũng
thường thay đổi và thị trường cũng hay biến động. Linh kiện điện
tử, các loại bộ phận máy móc dùng cho xe máy, xe hơi, v.v. là các
thí dụ điển hình. Trong trường hợp nầy, đẩy mạnh sự liên kết
(linkage) giữa các công ty lớn ở đô thị (kể cả công ty có vốn nước
ngoài) và công ty nhỏ ở nông thôn là hợp lý nhất. Sự liên kết nầy
cũng thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ từ các công ty lớn ở đô
thị đến các công ty nông thôn.
Các xí nghiệp công nghiệp ở nông thôn có thể ra đời trong
nhiều trường hợp. Có công ty nguyên là các hộ gia đình trong khu
vực công nghiệp truyền thông (Mt-1) trước đây, có công ty nguyên
là những xí nghiệp tập thể dưới thời kế hoạch tập trung như trường
hợp TVEs của Trung Quốc, có trường hợp do các công ty thương
nghiệp ở các đô thị lập ra hoặc là các công ty vệ tinh của các xí
nghiệp chế tạo lớn. Tuỳ theo điều kiện ban đầu, nhất là điều kiện về
địa lý, của từng vùng nông thôn mà các loại hình xí nghiệp nông
thôn có thể khác nhau. Tuy nhiên yếu tố cốt lõi và chung nhất ở đây
là thông tin và tổ chức như đã nhấn mạnh. Qua các tác nhân và qua
sự liên kết đã phân tích ở trên, công nghiệp nông thôn sẽ tiếp cận
với vốn, công nghệ và thị trường để phát triển.
5

III. Công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam :
Chiến lược nào cho Miền Trung ?

1. Tổng quát về vấn đề công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam:
Từ khi có đổi mới, nhất là từ năm 1988, nông nghiệp Việt Nam
phát triển nhanh. Như Biểu 1 cho thấy, tốc độ tăng bình quân năm
trong tổng sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam tương đương với
Trung Quốc và năng suất thu hoạch lúa trên một hecta tại Việt Nam

THỜI ÐẠI số 8

68
còn cao hơn. Tuy nhiên do dân số tăng nhanh, mức tăng trưởng
lượng lương thực bình quân đầu người ở Việt Nam thấp hơn Trung
Quốc nhiều. Thêm vào đó, nông nghiệp của Việt Nam còn mang
nặng tính độc canh và chính sách giá cả, hệ thống phân phối không
có lợi cho người nông dân. Các yếu tố nầy làm cho đời sống nông
thôn chậm được cải thiện và ít có tích luỹ để cung cấp vốn cho công
nghiệp.
Tuy nhiên, bây giờ ta không phải đợi đến khi có tích luỹ trong
nội bộ nông nghiệp rồi mới tiến hành công nghiệp hoá nông thôn.
Như đã nói ở trên, trong thời đại ngày càng hội nhập vào thị trường
thế giới, nếu có chiến lược đúng đắn, có thể giải quyết vấn đề vốn,
công nghệ và thị truờng cho công nghiệp hoá nông thôn. Ngoài ra,
công nghiệp hoá nông thôn cần đặt trong một tổng thể chung về
việc phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có hiện đại hoá, đa
dạng hoá nông nghiệp. Công nghiệp hoá nông thôn lại nằm trong
một tổng thể chung của công nghiệp hoá toàn đất nước qua sự liên
kết về thị truờng và sản xuất.
Đất nước Việt Nam dài, đa dạng về khí hậu, phong thổ và địa
hình nên không thể có một chiến lược công nghiệp hoá chung cho
mọi vùng. Có vùng chưa thể tiến hành nhanh công nghiệp hoá
nông thôn mà trước mắt cần tập trung vào việc hiện đại hoá nông
nghiệp. Có vùng ít có dư địa để hiện đại hoá nông nghiệp mà phải
đi ngay vào công nghiệp hoá. Có vùng có vị trí thuận lợi cho việc
tiếp cận với thị trường thế giới, có vùng nằm ngay cạnh các đô thị
lớn. Như vậy cần có chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá cho
mỗi vùng.


Trần Văn Thọ, Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam…

69


Thông thường VN được chia thành 7 vùng địa lý. Biểu 2 trình
bày sự phân bố về dân cư tại 7 vùng nầy, ký hiệu từ số 1 đến số 7
(xem ghi chú ở cuối biểu về tên cụ thể các vùng). Trong 7 vùng nầy,
vùng 2 (gồm thủ đô Hà Nội) và vùng 6 (gồm Thành Phố Hồ Chí
Minh) đông dân nhất, mỗi nơi chiếm 20% tổng dân số toàn quốc.
Biểu nầy cũng cho thấy những thông tin lý thú về dân số nhìn từ cả
2 mặt nơi sinh (nhìn hàng ngang, dòng thứ nhất) và nơi cư trú hiện
tại (hàng dọc, dòng thứ hai). Chẳng hạn, xét Vùng 3 (Bắc Trung bộ,
từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên - Huế) ta thấy vùng nầy chiếm 13,3%
dân số toàn quốc, trong số những người sinh trưởng ở vùng nầy có
71,1% sống tại quê hương mình, 13,5% sống tại Vùng 6, chủ yếu là
Thành Phố Hồ Chí Minh, còn lại phân tán đi các nơi khác. Nhìn
tình hình những người đương sống ở Vùng 3 ta thấy có tới 94,6% là
dân địa phương. Con số nầy lớn nhất so với con số tương tự tại các
vùng khác, nói lên sự thiếu hấp dẫn người ở vùng khác đến sinh
sống. Ngược lại, con số tương ứng nhỏ nhất trong 7 vùng là Vùng 5
(Tây Nguyên), chỉ có 11,2%. Ở đây đất rộng người thưa nên đó là
hiện tượng cũng dễ hiểu. Con số tương ứng của Vùng 6 cũng khá
nhỏ, nói lên sự hấp dẫn của Thành Phố Hồ Chí Minh và khu lân cận
đối với dân cư các vùng khác.

THỜI ÐẠI số 8

70
Về sự phân bố dân số và khuynh hướng di động dân số giữa
các vùng, Biểu 2 cho thấy dân số có khuynh hương đổ xô về vùng 6,
trong đó phần quan trọng là thành phần có trình độ giáo dục cao.
Điều nầy vừa tăng áp lực dân số ở Vùng 6 vừa mở rộng khoảng
cách phát triển giữa Vùng 6 với những nơi khác. Do đó, việc đẩy
mạnh công nghiệp hoá và phát triển các vùng khác càng trở nên
bức xúc.
Trong phần phương pháp luận ở Tiết I và II, ta đã chia các
ngành công nghiệp thành 4 loại : Mm, Ma, Mt-1 và Mt-2. Trong
tương lai, khi công nghiệp hoá nông thôn tiến triển Mt-1 sẽ dần dần
triệt tiêu và cuối cùng chỉ còn Mm, Ma và Mt-2. Mm và Ma trên
thực chất chỉ khác nhau về mặt địa lý, một bên là sản xuất ở đô thị
và một bên là nông thôn.
Trên thực tế, khi phân tích về chiến lược công nghiệp hoá nói
chung, tôi đã chia các ngành công nghiệp thành 5 nhóm :
6

Nhóm A : Những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là
lao động giản đơn, như vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ
hành, dụng cụ du lịch, v.v
Nhóm B : Những ngành có hàm lượng lao động cao, trong đó
bao gồm nhiều loại lao động, một số là lao động giản đơn nhưng
một số khác là lao động có tay nghề cao hoặc có trình độ giáo dục
cao, như đồ điện gia dụng, bộ phận điện tử, linh kiện điện tử, v.v…
Nhóm C : Những ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa
dùng nhiều nguyên liệu nông lâm thuỷ sản như thực phẩm gia
công các loại, đồ uống công nghiệp, v.v…
Nhóm D : Những ngành có hàm lượng tư bản cao và dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên như thép, hoá dầu.
Nhóm E : Những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ
cao như máy tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện, bộ phận điện
tử cao cấp, v.v


Trần Văn Thọ, Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam…

71


Phân tích của tôi cũng đã cho thấy rằng Việt Nam đương có lợi
thế so sánh trong nhóm A nhưng chưa phát huy hết khả năng.
Nhóm C cũng có tiềm năng nhưng chưa phát huy. Nhóm B là lãnh
vực thị trường thế giới đang tăng và sẽ tăng nhanh, và là lãnh vực
Việt Nam có tiềm năng, cơ cấu lao động và chất lượng lao động của
Việt Nam rất thích hợp với việc sản xuất các ngành nầy. Trong dài

THỜI ÐẠI số 8

72
hạn Việt Nam rất có nhiều triển vọng vì đây là các ngành dùng
nhiều lao động vừa giản đơn vừa lành nghề, một bộ phận đòi hỏi
trình độ lao động có kỹ năng cao, rất thích hợp với cơ cấu lao động
Việt Nam hiện nay. Lao động giản đơn cũng phải được huấn luyện
trong nội bộ xí nghiệp, nhưng lao động Việt Nam được tiếng là có
tinh thần cầu học và tiếp nhận nhanh.
Cả 3 nhóm Việt Nam có lợi thế so sánh hiện nay đều có thể
phát triển ở nông thôn, trong đó nhóm B và A có thể được đẩy
mạnh dưới hình thái liên kết với các công ty ở đô thị. Nhóm C gắn
bó mật thiết với nhiều vùng ở nông thôn hoặc ven biển nhưng cũng
cần năng lực tổ chức và thông tin từ các tác nhân ở đô thị. Điểm nầy
bàn sâu hơn trong phần phân tích về công nghiệp hoá Miền Trung.

2. Công nghiệp hoá nông thôn Miền Trung:
Miền Trung thông thường gồm Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam
Trung bộ và Tây nguyên, tương ứng với các Vùng 3, 4 và 5 trong
Biểu 2. Tây nguyên có đặc tính riêng (xa biển, dân thưa, sản phẩm
chủ yếu là lâm sản và các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê,
) nên cần có chiến lược công nghiệp hoá khác với 2 vùng khác ở
Miền Trung. Hai vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung bộ
có các điều kiện ban đầu tương đối giống nhau. Có thể tóm tắt như
sau :
Thứ nhất, tỉ lệ dân số trong toàn quốc tương đối thấp (Biểu 2)
nhưng tỉ lệ đất canh tác nông nghiệp còn thấp hơn nữa (tính từ Biểu
3) nên mật độ dân số cao. Vì lý do nầy, mặc dù năng suất lúa trên
đất canh tác tương đương với các vùng khác nhưng sản lượng lúa
trên đầu người thấp hơn nhiều so với trung bình của cả nước (xem
Biểu 3). Ngoài ra, như Biểu 3 cho thấy, trong thập niên 1990, diện
tích đất trồng lúa trên toàn quốc hằng năm tăng trung bình độ 2,5%
trong khi ở miền Trung hầu như không tăng (trường hợp Vùng Bắc
Trung bộ) hoặc giảm (Duyên hải Nam Trung bộ). Do đó công
nghiệp hoá ở nông thôn miền Trung trở thành vấn đề bức xúc hơn
cả các vùng khác. Mặt khác, mật độ dân số và lao động cao cũng
cho thấy miền Trung đặc biệt có lợi thế so sánh trong những ngành
công nghiệp dùng nhiều lao động. Nói cách khác, tuy cả nước có lợi

Trần Văn Thọ, Chiến lược công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam…

73
thế nầy so với thế giới, Miền Trung đặc biệt sẽ duy trì lợi thế nầy
trong một thời gian dài hơn các vùng khác.





Thứ hai, cả hai vùng đều ở vị trí rất gần biển và có nhiều thành
phố, thị trấn, thị tứ nằm rải rác dọc theo bờ biển. Đây là điều kiện
thuận lợi để trỉển khai công nghiệp hoá nông thôn miền Trung theo
hướng hội nhập với thị trường thế giới. Trong trường hợp của
Trung Quốc, các xí nghiệp hương trấn (TVEs) phát triển mạnh mẽ
và ngày càng hướng ngoại là nhờ tập trung tại các tỉnh ven biển.
7

Thứ ba, do ở gần biển và có nhiều sông ngòi, số nhà máy chế
biến thực phẩm đã hình thành khá nhiều nhưng phần lớn là xí
nghiệp quốc doanh. Như Biểu 4 cho thấy, tại Bắc Trung bộ, tỉ lệ số

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét