Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý,
điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các
hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của
nước sở tại.
b. Ph©n lo¹i ®Çu t.
- Theo phạm vi quốc gia:
+ Đầu tư trong nước.
+ Đầu tư ngoài nước.
- Theo thời gian sử dụng:
+ Đầu tư ngắn hạn.
+ Đầu tư trung hạn.
+ Đầu tư dài hạn.
- Theo lĩnh vực kinh tế:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư vào sản xuất công nghiệp.
+ Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp.
+ Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên.
+ Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ.
+ Đầu tư vào lĩnh vực tài chính.
- Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ
vốn:
+ Đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư gián tiếp.
Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư trực tiếp
và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử
dụng vốn đầu tư.
- Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không
phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn ( viện trợ không hoàn lại )
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, họ được hưởng lợi
tức thông qua phần vốn đầu tư. Đầu tư gián tiếp bao gồm:
+ Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (official Development assistance -
ODA). Đây là nguồn vốn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ viện
trợ không hoàn lại, phần còn lại chịu mức lãi xuất thấp còn thời gian dài hay ngắn tuỳ
thuộc vào từng dự án. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm điều kiện chính
trị.
+ Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (Non Government organization-
NGO): Tương tự như nguồn vốn ODA nhưng do các tổ chức phi chính phủ viện trợ
cho các nước đang thiếu vốn. Đó là các tổ chức như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
+ Tín dụng thương mại: là nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho hoạt động
thương mại, xuất nhập khẩu giữa các quốc gia.
+ Nguồn vốn từ việc bán tín phiếu, trái phiếu, cố phiếu Đây là nguồn vốn thu
được thông qua hoạt động bán các chứng từ có giá cho người nước ngoài. Có quốc
gia coi việc mua chứng khoán là hoạt động đầu tư trực tiếp.
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử
dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh,
làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, hoặc hợp tác liên
doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích
thu được lợi nhuận.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nguồn vốn tài chính
đưa vào một nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
3. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI)
a. Lý thuyết về lợi nhuận cận biên:
Năm 1960 Mac. Dougall đã đề xuất một mô hình lý thuyết, phát triển từ
những lý thuyết chuẩn của Hescher Ohlin - Samuaelson về sự vận động vốn. Ông cho
rằng luồng vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho
đến khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau). Sau đầu tư, cả hai
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới tăng lên
so với trước khi đầu tư.
Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận những năm 1950 dường như
phù hợp với lý thuyết. Nhưng sau đó, tình hình trở nên thiếu ổn định, tỷ suất đầu tư
của Mỹ giảm đi đến mức thấp hơn tỷ suất trong nước, nhưng FDI của Mỹ ra nước
ngoài vẫn tăng liên tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì sao một số
nước đồng thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra; không đưa ra được sự
giải thích đầy đủ về FDI. Do vậy, lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể được coi là
bước khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu FDI.
b. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm (Vernon, 1966):
Lý thuyết chu kỳ sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm 1966.
Theo lý thuyết này thì bất kỳ một công nghệ sản phẩm mới nào đều tiến triển theo 3
giai đoạn: Giai đoạn phát minh và giới thiệu, giai đoạn phát triển qui trình và đi tới
chín muồi và giai đoạn chín muồi hay được tiêu chuẩn hoá. Trong mỗi giai đoạn này
các nền kinh tế khác nhau có lợi thế so sánh trong việc sản xuất những thành phần
khác nhau của sản phẩm. Quá trình phát triển kinh tế, nó được chuyển dịch từ nền
kinh tế này sang nền kinh tế khác.
Giả thuyết chu kỳ sản xuất giải thích sự tập trung công nghiệp hoá ở các nước
phát triển, đưa ra một lý luận về việc hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế
giải thích sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nưóc công nghiệp hoá. Tuy
nhiên, lý thuyết này chỉ còn quan trọng đối với việc giải thích FDI của các công ty
nhỏ vào các nước đang phát triển.
c. Những lý thuyết dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường
c.1. Tổ chức công nghiệp (hay còn gọi là lý thuyết thị trường độc quyền):
Lý thuyết tổ chức công nghiệp do Stephen Hymer và Charles Kindleberger
nêu ra. Theo lý thuyết nay, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết
theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: Quá trình liên kết theo chiều dọc các giai đoạn
khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản xuất, việc
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sản xuất và khai thác kỹ thuật mới và cơ hội mở rộng hoạt động ra đầu tư nước ngoài
có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên lạc.
Chiến lược liên kết chiều dọc của các công ty đa quốc gia là đặt các công
đoạn sản xuất ở những vị trí khác nhau trên phạm vi toàn cầu, nhằm tận dụng lợi thế
so sánh ở các nền kinh tế khác nhau, hạ thấp giá thành sản phẩm thông qua sản xuất
hàng loạt và chuyên môn hoá, tăng khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham và Krugman sử
dụng (1989) để giải thích cho sự tăng lên của FDI vào nước Mỹ trong những năm gần
đây (khi mà họ đã đánh mất những lợi thế đã có cách đây 20 năm).
Giả thuyết của tổ chức công nghiệp chưa phải là giả thuyết hoàn chỉnh về
FDI. Nó không trả lời được câu hỏi: vì sao công ty lại sử dụng hình thức FDI chứ
không phỉa là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình thức
cấp giấy phép hoặc bán những kỹ năng đặc biệt của nó cho các công ty nước sở tại.
c.2. Giả thuyết nội hoá:
Giả thuyết này giải thích sự tồn tại của FDI như là kết quả của các công ty
thay thế các giao dịch thị trường bằng các giao dịch trong nội bộ công ty để tránh sự
không hoàn hảo của các thị trường.
d. Mô hình đàn nhạn của Akamatsu:
Mô hình “đàn nhạn” của sự phát triển công nghiệp được Akamatsu đưa ra vào
những năm 1961 -1962. Akamatsu chia quá trình phát triển thành 3 giai đoạn: (1) sản
phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài để phục vụ cho nhu cầu trong nước; (2) sản
phẩm trong nước tăng lên để thay thế cho nhập khẩu; sản xuất để xuất khẩu, FDI sẽ
thực hiện ở giai đoạn cuối để đối mặt với sự thay đổi về lợi thế tương đối.
Ozawa là người tiếp theo nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và mô hình “đàn
nhạn”. Theo ông, một ngành công nghiệp của nước đang phát triển có lợi thế tương
đối về lao động, sẽ thu hút FDI vào để khai thác lợi thế này. Tuy nhiên sau đó tiền
lương lao động của ngành này dần dần tăng lên do lao động của địa phương đã khai
thác hết và FDI vào sẽ giảm đi. Khi đó các công ty trong nước đầu tư ra nước ngoài
(nơi có lao động rẻ hơn) để khai thác lợi thế tương đối của nước này. Đó là quá trình
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
liên tục của FDI. Mô hình đã chỉ ra quá trình đuổi kịp của các nước đang phát triển:
khi một nước đuổi kịp ở nấc thang cuối cùng của một ngành công nghiệp từ kinh tế
thấp sang kỹ thuật cao thì tỷ lệ FDI ra sẽ lớn hơn tỷ lệ FDI vào. Một quốc gia đứng
đầu trong đàn nhạn, đến một thời điểm nhất định sẽ trở nên lạc hậu và nước khác sẽ
thay thế vị trí đó.
Đóng góp đáng kể của mô hình này là sự tiếp cận “động” với FDI trong một
thời gian dài, gắn với xu hướng và quá trình của sự phát triển, có thể áp dụng để trả
lời câu hỏi: vì sao các công ty thực hiện FDI, đưa ra gợi ý đối với sự khác nhau về lợi
thế so sánh tương đối giữa các nước dẫn đến sự khác nhau về luồng vào FDI.
Tuy nhiên, mô hình “đàn nhạn” chưa thể trả lời các câu hỏi vì sao các công ty
lại thích thực hiện FDI hơn là xuất khẩu hoặc cung cấp kỹ thuật của mình, và không
dùng nó để giải thích vì sao FDI lại diễn ra giữa các nước tương tự về các nhân tố và
lợi thế tương đối, vì sao FDI lại diễn ra từ khu vực kinh tế này sang khu vực kinh tế
khác. Vấn đề quan trọng hơn là mô hình này lờ đi vai trò của nhân tố cơ cấu kinh tế
và thể chế.
e. Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI:
Theo Dunning một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có 3
lợi thế: Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - viết tắt là lợi thế O - bao gồm lợi
thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch), lợi thế về khu vực
(Locational advantages - viết tắt là lợi thế L - bao gồm: tài nguyên của đất nước, qui
mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách của
Chính phủ) và lợi thế về nội hoá (Internalisation advantages - viết tắt là lợi thế I - bao
gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu
thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản
quyền phát minh, sáng chế).
Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thoả mãn
trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế O và
I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI. Những lợi thế này không cố định
mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI ở từng
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt nguồn từ việc
các nước này đang ở bước nào của quá trình phát triển và được Dunning phát hiện
vào năm 1979.
f. Lý thuyết về các bước phát triển của đầu tư (Investment Development
Path - IDP):
Theo lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: lợi thế L của một nước ít hấp dẫn, luồng vào FDI không đáng kể
do hạn chế của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, giáo dục
yếu kém, lao động không có kỹ năng… và hiếm khi thấy luồng ra FDI.
Giai đoạn 2: luồng vào của FDI bắt đầu tăng do lợi thế L đã hấp dẫn các nhà
đầu tư: sức mua trong nước bắt đầu tăng, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện … FDI
trong bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập khẩu và những ngành
khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế.
Luồng ra của FDI trong giai đoạn này không đáng kể.
Giai đoạn 3: luồng vào của FDI bắt đầu giảm và luồng ra lại bắt đầu tăng.
Khả năng kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn hoá.
Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những nước có
lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc giành những tài
sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng vào của FDI tập trung
vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Giai đoạn 4: lợi thế O của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ
sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ sử dụng nhiều vốn. Mặt
khác chi phí vốn trở nên rẻ hơn chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế L của đất nước sẽ
chuyển sang các tài sản. FDI từ các nước đang phát triển ở bước 4 sẽ vào nước này
để tìm kiếm những tài sản trên hoặc từ các nước kém phát triển hơn nhằm tìm kiếm
thị trường và đặt quan hệ thương mại. Trong bước này các công ty trong nước vẫn
thích thực hiện FDI ra nước ngoài hơn là xuất khẩu sản phẩm, bởi vì họ có thể khai
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thác lợi thế I của mình. Do vậy, luồng vào và luồng ra của FDI vẫn tăng, nhưng luồng
ra sẽ nhanh hơn.
Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của FDI tiếp tục và khối lượng tương tự
nhau. Luồng vào từ các nước có mức độ phát triển thấp hơn với mục đích tìm kiếm
thị trường và kiến thức; hoặc từ các nước đang phát triển ở bước 4 và 5 để tìm kiếm
sản xuất có hiệu quả. Do vậy luồng ra và luồng vào là tương tự.
Mô hình OLI giải thích hiện tượng FDI theo trạng thái tĩnh, trong khi lý thuyết
IDP lại xem xét hiện tượng FDI trong trạng thái động với sự thay đổi các lợi thế này
trong từng bước phát triển. Do vậy, lý thuyết này cùng với mô hình OLI là thích hợp
nhất để giải thích hiện tượng FDI trên toàn thế giới, tất nhiên trong đó có Việt Nam.
4. Bản chất và vai trò của FDI
a. Bản chất :
Hiện nay ở trên nhiều loại sách báo, tạp chí của các tổ chức quốc tế cũng như
Chính phủ các nước có tương đối nhiều định nghĩa về FDI, như định nghĩa của tổ
chức Ngân hàng Thế giới thì FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư từ nước
ngoài mà mang lại lãi suất từ 10% trở lên.
Theo giáo trình Kinh tế Đầu tư của trường Đại học Kinh tế Quốc dân do PGS.
TS Nguyễn Ngọc Mai làm chủ biên thì đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là vốn
của các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp
quản lý hoặc tham gia trực tiếp quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra.
Đến nay định nghĩa mà nhiều nước và các tổ chức hay dùng nhất là định nghĩa
của tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) đã đưa ra vào năm 1977 như sau: “Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một
doanh nghiệp hoạt động ở nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài
mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn dành được chỗ đứng trong việc quản
lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường”.
Đầu tư nước ngoài bao gồm đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và đầu tư gián
tiếp (FPI). Trong đó, FDI quan trọng hơn nhiều, dù cho đầu tư gián tiếp có xu hướng
tăng lên. FDI tăng lên nhanh chóng trong vòng 15 năm qua với đặc điểm tập trung co
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cụm về địa dư, ngành, và hãng. Hầu hết FDI diễn ra ở Đông á (Malaisia, Thái Lan,
Singapore, Hong Kong, Trung Quốc) và Châu Mĩ Latinh (Brazil, Mexico), trong lĩnh
vực thiết bị vận tải, hoá chất, máy móc và điện tử. Một số lượng ít các hãng lớn từ
các nước công nghiệp chiếm một phần lớn đầu tư nước ngoài. Mô hình đầu tư cũng
thiên lệch về địa lý; các hãng của Mỹ đầu tư mạnh vào châu Mỹ Latinh, các hãng của
Nhật đầu tư vào châu á, còn các hãng của Anh lại tập trung vào các nước thuộc khối
Thịnh vượng Chung.
Tầm quan trọng tăng nhanh của FDI là nhờ nhận thức về những đóng góp to
lớn của FDI vào phát triển kinh tế, cung cấp cho các nước chủ nhà về vốn, công
nghệ, và kỹ năng quản lý hiện đại. FDI chịu ảnh hưởng của các yếu tố cụ thể trong
nước chủ nhà cũng như nước đầu tư. Với nước chủ nhà, các yếu tố hấp dẫn FDI là
nguồn tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản (như dầu mỏ ở Indonesia) hay giá lao
động rẻ mạt (như Trung Quốc, Malaisia) cũng có vai trò quan trọng không kém, đặc
biệt khi áp dụng chính sách thay thế nhập khẩu là một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư.
Để thu hút FDI, nhiều Chính phủ đưa ra các biện pháp khuyến khích như miễn giảm
thuế, khấu hao nhanh, giảm thuế nhập khẩu đầu vào sản xuất, đặc khu kinh tế, hay
khuyến khích xuất khẩu đối với những người muốn đầu tư. Dù có những khuyến
khích đặc biệt như vậy nhưng người ta nhận thấy FDI trở nên hấp dẫn ở những nước
có môi trường kinh tế vĩ mô và môi trường chính trị tốt. Chính sách bảo hộ - chống
cạnh tranh của hàng ngoại nhập - của các nước chủ nhà đôi khi khiến các nhà đầu tư
đặt cơ sở sản xuất ngay tại nước chủ nhà. FDI cũng phụ thuộc vào các yếu tố của các
nước đi đầu tư. Các hãng đầu tư ra nước ngoài nhằm giành trước hay ngăn chặn
những hoạt động tương tự của các đối thủ cạnh tranh. Một số nước cho phép các nhà
đầu tư được nhập khẩu miễn thuế một số sản phẩm chế tạo tại các chi nhánh của họ
tại nước ngoài. Cuối cùng, phân tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều đặc điểm khác
nhau cũng là một động cơ của các nhà đầu tư.
Trên đây ta có thể thấy được một số nét đặc trưng của FDI:
- FDI mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng nó ít bị lệ thuộc hơn
vào quan hệ chính trị hai bên nếu so sánh với hình thức tín dụng quan hệ quốc tế.
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp,
nên họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho
việc đầu tư. Vì vậy mức độ khả thi của công cuộc đầu tư khá cao, đặc biệt trong việc
tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.
- Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn liền với lợi ích do đầu tư đem
lại cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản
lý, tay nghề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia và sự
phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế.
b. Vai trò của FDI:
b.1. Đối với nước đi đầu tư:
- Đứng trên góc độ quốc gia:
Hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là cách để các quốc gia có thể mở
rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia khác mà mình sẽ
đầu tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt hàng thì nước đó thường có
những ưu thế nhất định về mặt hàng như về chất lượng, năng suất và giá cả cùng với
chính sách hướng xuất khẩu của nước này; thêm vào đó là sự có một sự sẵn sàng hợp
tác chấp nhận sự đầu tư đó của nước sở tại cùng với những nguồn lực thích hợp cho
sản phẩm đó. Mặt khác, khi đầu tư FDI nước đi đầu tư có rất nhiều có lợi về kinh tế
cũng như chính trị.
Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế của nước
đi đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế.
Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước sản phẩm
đang thừa mà nước sở tại lại thiếu.
Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu tư sang
nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay còn gọi là các
chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc phải khai thác các nguồn
lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trường.
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thứ tư, đó là vấn đề chính trị, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng
những kẻ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của Chính phủ nước
sở tại sẽ có những mục đích khác như làm gián điệp.
- Đứng trên góc độ doanh nghiệp:
Mục đích của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia thường là
lợi nhuận, lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Một khi trong nước hay các thị trường quen
thuộc bị tràn ngập những sản phẩm của họ và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh
tranh thì họ phải đầu tư ra nước khác để tiêu thụ số sản phẩm đó. Trong khi đầu tư ra
nước ngoài, họ chắc chắn sẽ tìm thấy ở nước sở tại những lợi thế so sánh so với thị
trường cũ như lao động rẻ hay tài nguyên chưa bị khai thác nhiều.
Một nguyên nhân nữa là họ có thể bán được những máy móc và công nghệ cũ
kỹ lạc hậu hay bị hao mòn vô hình do thời gian với giá cao nhưng lại là mới đối với
nước nhận đầu tư (khi nước đầu tư là nước đang phát triển).
Thêm vào đó, là sản phẩm của họ được bán tại thị trường này sẽ ngày càng
tăng uy tín và tiếng tăm cho nó và làm tăng sức cạnh tranh đối với các đối thủ có sản
phẩm cùng loại.
b.2. Đối với nước nhận đầu tư:
* Những mối lợi:
- Chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển giao nguồn lực):
Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản xuất chưa được phát
huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp thu được một nguồn vốn
lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm, trình độ
quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Như ta đã biết thì công nghệ chính là trung tâm của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá một đất nước đang phát triển như nước ta. Chúng ta cần có vốn và
công nghệ để có thể thực hiện được nó. Khi đầu tư trực tiếp diễn ra thì công nghệ
được du nhập vào trong đó có cả một số công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại
thương, các chuyên gia cùng với các kỹ năng quản lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của công nghệ này, do vậy các cán bộ bản địa có thể học hỏi kinh nghiệm của họ.
Sinh viên: Tô Vương Tài Lớp: Kinh tế đầu tư 47A
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét