Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần

ĐỀ SỐ 5
Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần.
Chú thích: CTCP: Công ty cổ phần

1
MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường, CTCP có một vị trí trung tâm và
là một xu thế vận động tất yếu của hệ thống doanh nghiệp. Ở nước ta, điều này
cũng đã được thể hiện rõ qua chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp
trong những năm qua. Trong đó, nổi bật lên là vấn đề qui chế pháp lý về vốn trong
Công ty cổ phần.
NỘI DUNG
I./ KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm
Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định về công ty cổ phần như
sau
“Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này”.
Từ quy định trên, ta có thể hiểu khái niệm CTCP một cách khái quát như
sau: “CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông,
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ
sở hữu. CTCP được quyền phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân”.
2
2. Đặc điểm
Từ khái niệm đã nêu trên, có thể nhận thấy một vài đặc điểm cơ bản của
CTCP dựa vào đó để phân biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp
danh như sau:
Thành viên của công ty: tối thiểu phải có ba thành viên tham gia công ty trong
suốt quá trình hoạt động, không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông có thể là tổ
chức, cá nhân (trừ trường hợp được quy định tại Điều 13 Luật doanh nghiệp).
Vốn điều lệ: vốn điều lệ của công ty được chia thành những phần bằng nhau gọi
là cổ phần. Pháp luật không quy định mỗi thành viên có thể mua tối đa bao nhiêu
cổ phần nhưng các thành viên có thể thoả thuận trong điều lệ công ty giới hạn tối
đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên
nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công ty.
Chế độ trách nhiệm: có sự tách bạch tài sản của công ty và của cổ đông công ty,
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty, CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi tài sản của công ty.
Chuyển nhượng phần vốn góp (cổ phần): phần gốn góp của các thành viên được
thể hiện dưới hình thức cố phiếu. Đây là một loại hàng hóa và cổ đông công ty có
quyền tự do chuyển nhượng cổ phần theo quy định của pháp luật.
Phát hành chứng khoán: CTCP có quyền phát hành chứng khoán ( cổ phiếu, trái
phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động
vốn. Điều này thể hiện lợi thế của CTCP là có khả năng huy động vốn lớn.
Tư cách pháp lý CTCP là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, xuất hiện kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3
II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Khái niệm và đặc điểm
1.1 Khái niệm
Vốn:
Trong cơ chế thị trường, để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kì doanh nghiệp nào
cũng cần phải có vốn. Vốn có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu của quá trình kinh
doanh. Vì vậy, để có thể sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh
doanh, các doanh nghiệp cần thiết phải hiểu về vốn và các đặc trưng của vốn
Theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế học hiện thì vốn trong kinh doanh trong
các doanh nghiệp là một loại quĩ tiền tệ đặc biệt. Trong nền kinh tế thị trường, vốn
là yếu tố vô cùng quan trong để các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp được toàn quyền linh hoạt sử dụng vốn sao cho nó mang lại hiệu
quả cao nhất cho doanh nghiệp. Vì vậy để quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cần phải nhận thức đầy đủ đặc trưng chủ yếu của vốn kinh doanh:
Quy chế pháp lý về vốn trong CTCP:
Xét về mặt khách quan, tất cả những quy phạm pháp luật liên quan đến vốn của
CTCP đã hình thành một “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP”. Do đó có thể định
nghĩa: “quy chế pháp lý về vốn trong CTCP” là tổng thể các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình góp vốn, quản lý sử dụng
vốn, chuyển nhượng vốn và những vấn đề khác liên quan đến sự thay đổi vốn của
CTCP.
Xét theo nghĩa chủ quan, trên cơ sở những quy định của pháp luật, trong quá trình
tổ chức, quản lý, điều hành công ty các chủ sở hữu công ty có thể cùng nhau xây
dựng một hệ thống quy tắc điều chỉnh quan hệ mang tính chất nội bộ trong quá
trình quản lý, sử dụng vốn của công ty. Như vậy, dưới góc độ này, “quy chế pháp
lý về vốn trong CTCP” là tổng hợp những quy tắc thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt
của nhà đầu tư vốn đối với những vấn đề liên quan đến vốn và tài sản của CTCP.
4

1.2 Đặc điểm
Từ những khái niệm nêu trên, ta có thể thấy quy chế pháp lý về vốn trong
CTCP có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, nó vừa thể hiện ý chí của Nhà nước vừa thể hiện ý chí của nhà đầu tư
vốn.
Thứ hai, nó quy định quyền và nghĩa vụ của công ty, của các thành viên công ty
đối với vốn và tài sản của công ty.
Thứ ba, nội dung chủ yếu của quy chế pháp lý về vốn trong CTCP được thể hiện
chủ yếu và cụ thể trong điều lệ công ty, bao gồm những nội dung cơ bản như: cấu
trúc vốn, chủ thể góp vốn, huy động vốn, vấn đề chuyển nhượng cổ phần, các
trường hợp tăng, giảm vốn của công ty
2. Cấu trúc vốn trong CTCP
Xét về phương diện cấu trúc, vốn của doanh nghiệp nói chung và của CTCP
nói riêng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm các bộ phận cấu thành có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Nhìn từ góc độ pháp lý, cấu trúc vốn của
doanh nghiệp gồm: vốn điều lệ và vốn vay.
2.1 Vốn điều lệ
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp, vốn điều lệ được định nghĩa là
“số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất
định và được ghi vào Điều lệ công ty”.
Vốn điều lệ của CTCP được chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và được phản ánh trong cổ phiếu. Vốn
điều lệ của công ty có thể bao gồm nhiều loại cổ phần với những tính chất pháp lý
khác nhau. Cụ thể đó là:
5
Cổ phần phổ thông: đây là loại cổ phần bắt buộc phải có của CTCP, người sở hữu
cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Cổ đông phổ thông chỉ được trả cổ
tức khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ
tài chính khác theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ
lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Ngoài ra, cổ đông phổ
thông có các quyền như: quyền biểu quyết, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới
chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông, được tự do chuyển nhượng cổ
phần (trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập)…
Cổ phần ưu đãi: là loại cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ phần phổ
thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi, được hưởng một số
quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ thông và phải chịu một
số hạn chế khác. Cổ phần ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông
theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nhưng cổ phần phổ thông không thể
được chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ phần ưu đãi của CTCP bao gồm:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là loại cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so
với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do
Điều lệ công ty quy định. Theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật doanh nghiệp
2005 thì chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập mới được
quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong CTCP. Cổ phần ưu đãi biểu quyết
của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong vòng 3 năm kể từ ngày công ty được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu
quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Cổ phần ưu đãi
biểu quyết không được chuyển nhượng.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả số cổ tức với mức cao hơn so với mức
cổ tức của cổ đông phổ thông hoặc mức cổ tức hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ
tức thưởng. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức do Điều lệ công ty quy
định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Mức cổ tức cố định cụ thể và
6
phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ
tức. Do đã được ưu đãi trong việc trả cổ tức nên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ
tức bị hạn chế một số quyền như: không có quyền biểu quyết; quyền dự họp Đại
hội đồng cổ đông; quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: đây là loại cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất
cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện được
ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại (Điều 83 Luật doanh nghiệp 2005). Cổ
đông sở hữu cổ phần ưu đãi này có các quyền như cổ đông phổ thông và cũng bị
hạn chế một số quyền như đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức.
Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Có thể thấy rằng, với cơ cấu vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ phần
với những tính chất pháp lý đa dạng, CTCP có thể thiết lập cơ chế góp vốn linh
hoạt, đáp ứng được những nguyện vọng, yêu cầu khác nhau của các nhà đầu tư.
Mặt khác, tính tự do chuyển nhượng của các cổ phần đã quy định cấu trúc “vốn
mở” của CTCP. Với cấu trúc này, vốn của CTCP có thể thay đổi uyển chuyển, linh
hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty.
2.2 Vốn vay
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty đang trong tình trạng khó
khăn về tài chính hay công ty muốn thay đổi quy trình công nghệ cũng như mở
rộng quy mô sản xuất. Vốn vay là nguồn vốn huy động từ bên ngoài bằng các hình
thức khác nhau như: vay ngân hàng; vay của các tổ chức, cá nhân khác và phát
hành trái phiếu.
Nguồn vốn vay bằng hình thức trái phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ
ưu thế của CTCP so với nhiều hình thức doanh nghiệp khác.
Tóm lại, cấu trúc vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các doanh
nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Nguồn vốn của công ty phải đáp ứng được
7
một cách đích thực cho quá trình đầu tư, phát huy được vai trò và ý nghĩa trong
hoạt động kinh doanh của công ty. Các nhà đầu tư cần chú trọng đến tỷ lệ, mối
tương quan về mặt giá trị giữa các loại vốn sao cho thật phù hợp, tạo khả năng
mạnh mẽ nhất để công ty đạt lợi nhuận tối đa và có nền tài chính lành mạnh phù
hợp với quy định của pháp luật.
3. Chủ thể góp vốn
Tự do kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của công dân, được cụ
thể hóa tại Điều 57 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật”. Trên cơ sở đó, khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005 cũng
quy định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành
lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này ”.
Tuy nhiên, mặc dù pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh của các cá
nhân, tổ chức, song không phải mọi chủ thể đều có thể thực hiện quyền năng này,
khoản 2 Điều 13 đã quy định một số đối tượng không được thành lập và quản lý
doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng. Ngoài ra, khi tiếp nhận vốn góp
của các nhà đầu tư, công ty cũng cần xem xét những trường hợp tổ chức, cá nhân
không được mua cổ phần của CTCP tại Khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp 2005
Chủ thể góp vốn vào CTCP sẽ trở thành cổ đông của công ty. Khi đã trở
thành cổ đông của công ty, họ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật và Điều lệ công ty.
4. Tài sản góp vốn
Các tài sản góp vốn vào CTCP bao gồm các loại: tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác theo quy định tại Điều lệ công ty.
8
Nếu tài sản góp vốn không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì tài
sản này phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên
nghiệp định giá tài sản. Việc định giá này giúp làm rõ giá trị góp vốn mà mỗi cá
nhân góp vào khi tham gia công ty và làm căn cứ để khấu hao về sau do quá trình
sử dụng
Tài sản góp vốn này có 2 loại: Tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất và
tài sản không đăng ký quyền sở hữu: 1. Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị
quyền sử dụng đất thì người góp phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho
công ty; 2.Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu thì việc góp vốn phải bằng
việc giao nhận có xác nhận bằng văn bản
5. Chuyển nhượng cổ phần
Việc chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện bằng hai cách thức, đó
là: chuyển nhượng cổ phần cho người khác và yêu cầu công ty mua lại phần vốn
góp của mình.
5.1 Chuyển nhượng cổ phần cho người khác
Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005, cổ đông CTCP
có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ hai trường
hợp sau:
Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết:
Khoản 3 Điều 81 quy định: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không
được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác”. Như vậy, nếu muốn chuyển
nhượng những cổ phần này, người sở hữu cổ phàn phải chuyển đổi từ cổ phần ưu
đãi biểu quyết sang cổ phần phổ thông.
Đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập:
Việc chuyển nhượng đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn chế
một phần, cụ thể là: trong ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng
9
nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất
20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Số cổ phần này có thể được
tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng
cho người không phải là cổ đông sáng lập của công ty nếu được sự chấp thuận của
Đại hội đồng cổ đông và người chuyển nhượng sẽ không được biểu quyết việc
chuyển nhượng này.
Việc chuyển nhượng vốn trong CTCP được thực hiện tương đối dễ dàng, thuận
tiện cho các nhà đầu tư. Đó cũng chính là một trong những ưu điểm nổi trội của
CTCP so với các loại hình công ty khác.

5.2 Yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Mua lại phần vốn góp của một thành viên nào đó trong công ty thực chất là
việc công ty thu hồi lại một số cổ phần đã phát hành và trả cho cổ đông đó một số
tiền tương ứng với giá trị số cổ phần mà cổ đông yêu cầu công ty mua lại. Số cổ
phần công ty mua lại sẽ trở thành cổ phần chưa bán trong số cổ phần được chào
bán. Yêu cầu công ty mua lại cổ phần là một quyền quan trọng của cổ đông, nhất là
đối với những cổ đông thiểu số, họ có thể sử dụng quyền này như một công cụ để
bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng do việc mua lại cổ phần có thể ảnh hưởng tới
vốn điều lệ công ty, nên cổ đông chỉ có thể thực hiện quyền đó những trường hợp
nhất định. Điều 90 Luật doanh nghiệp đã quy định: “Cổ đông biểu quyết phản đối
quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông
quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình ”.
Yêu cầu này phải được thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ những nội dung sau:
tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán và lý do yêu
cầu công ty mua lại cổ phần. Đơn yêu cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn
mười ngày làm việc kể từ ngày Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định về
những vấn đề trên.
10
Trong thời hạn 90 ngày, công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ
đông. Trường hợp không thoả thuận được về giá thì cổ đông đó có thể bán cổ phần
cho người khác hoặc nhờ tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá.
6. Các trường hợp thay đổi vốn của CTCP
Sự thay đổi vốn của CTCP là sự điều chỉnh về vốn trong công ty, có thể tăng
lên hoặc giảm đi so với số vốn ban đầu. Đối với CTCP, với một cấu trúc vốn uyển
chuyển và linh hoạt đương nhiên sẽ có nhiều điều kiện lựa chọn những biện pháp
thích hợp để điều chỉnh nguồn vốn của mình, để có được một cơ cấu vốn tốt nhất,
phù hợp với quy mô sản xuất, kinh doanh của công ty, đáp ứng được nhu cầu tồn
tại, phát triển, đảm bảo thu được lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Vấn đề này được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật như: Luật doanh
nghiệp 2005, Luật chứng khoán, Nghị định của Chỉnh phủ số 52/2006/NĐ-CP về
pháp hành trái phiếu doanh nghiệp.
6.1 Các trường hợp tăng vốn của công ty
Việc huy động vốn của CTCP được xác định theo hai trường hợp sau:
Tăng vốn vay của CTCP:
Vay vốn của các tổ chức tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng, vay của các tổ
chức, cá nhân khác
Ngoài ra, theo Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005, CTCP còn có thể tăng vốn
vay bằng cách phát hành trái phiếu.
Theo Điều 2 Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 về phát hành trái
phiếu doanh nghiệp: “Trái phiếu doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là trái phiếu) là một
loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và
lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu”. Về bản chất pháp
lý, trái phiếu là một loại chứng chỉ xác nhận nợ của người phát hành đối với người
sở hữu nó. Theo quy định tại Nghị định 52/2006/NĐ-CP thì CTCP có thể phát
11
hành cả hai loại trái phiếu là trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu không chuyển đổi.
Điều kiện để một doanh nghiệp nói chung cũng như CTCP nói riêng được quyền
phát hành trái phiếu được quy định rõ tại Điều 17 của Nghị định nói trên.
Tăng vốn điều lệ của CTCP:
Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh, CTCP có thể tăng vốn điều lệ trong quá trình
hoạt động của mình. Theo pháp luật hiện hành, CTCP có quyền tăng vốn điều lệ
bằng cách phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút
toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu
đối với tài sản hoặc vốn của CTCP. Có hai loại cổ phiếu đó là cổ phiếu ghi tên và
cổ phiếu không ghi tên. Theo quy định tại Điều 12 Luật chứng khoán, điều kiện để
chào bán cổ phiếu ra công chúng là:
Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ
mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng
thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được
Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Bên cạnh việc phát hành cổ phiếu, trên thực tế CTCP còn có thể tăng vốn điều
lệ bằng việc trích từ quỹ dự trữ của công ty vào vốn điều lệ. Công ty có thể chuyển
một phần quỹ dự trữ vào vốn điều lệ dưới dạng cổ phần, thực hiện theo một trong
hai cách, đó là: phát hành cổ phiếu mới trong phạm vi nội bộ công ty và chia cho
mỗi cổ đông theo tỷ lệ cổ phần của họ; hoặc công ty không phát hành cổ phần mới
mà lấy quỹ dự trữ chia cho tổng số cổ phần hiện đang lưu hành của công ty, phần
chia thêm là giá trị tăng thêm của cổ phần và được ghi vào từng cổ phiếu. Biện
pháp tăng vốn này không làm thay đổi quyền biểu quyết của cổ đông, bởi vì tỷ lệ
vốn góp của mỗi thành viên công ty là không thay đổi. Do đó nó không ảnh hưởng
12
đến cơ cấu quyền lực trong công ty, nhưng công ty vẫn phải làm thủ tục sửa đổi
Điều lệ theo sự quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
Ngoài ra, vốn điều lệ của CTCP còn tăng lên khi các trái phiếu chuyển đổi do
công ty phát hành được đổi thành cổ phần phổ thông, nghĩa là vốn vay được
chuyển thành vốn điều lệ. Sự chuyển đổi này chỉ diễn ra khi đáp ứng đủ những
điều kiện đã được xác định trước ghi trong trái phiếu và có sự ưng thuận của người
chủ sở hữu trái phiếu đó. Quyền quyết định tăng vốn điều lệ theo hình thức này
cũng thuộc về Đại hội đồng cổ đông và phải sửa Điều lệ công ty. Mọi trường hợp
tăng vốn đều phải làm thủ tục sửa đổi Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét