Le cinquième article est également un résumé de mémoire de recherche au niveau de
MBA, portant sur la question d’établissement d’un système de salaire adapté au contexte des
entreprises d’après actionnarisation. Cette recherche s’est focalisée sur un cas concret
d’entreprise et a recommandé qu’il est nécessaire d’établir un système flexible permettant de
mieux mobiliser le personnel au développement de l’entreprise.
En fin, la recherche de Truong Thi Nam Thang (CFVG-Hanoi) a pour but de retirer des
expériences du processus de l’actionnarisation des entreprises étatiques en Chine, sous l’angle de
gouvernance d’entreprise. L’étude a montré qu’il y a plusieurs similitudes entre la Chine et le
Vietnam, et a ainsi proposé des recommandations à destination du gouvernement et entreprises
vietnamiennes afin d’assurer une actionnarisation réussite.
5
IN THIS ISSUE
The research papers collection “Ouverture Economique” is a scientific publication of
CFVG. The 8 first issues concentrated on the topics of Vietnamese and world economies.
“Ouverture Economique” is considered to be a prestigious publication and welcomed by readers
(researchers, experts, students) locally and from abroad.
This issue is specialised in the topic of enterprises restructuring in the context of
economic transition in Vietnam. The issue has received the contribution of papers from local and
foreign researchers who are both experts and students, inside and outside CFVG.
By studying the relationship between sustainable development and management methods
of enterprises in developing countries, Georges Hénault – professor of Ottawa University – has
concluded the needs of taking into account the sustainable development in management activities
by companies, including SMEs, in order to improve the competitiveness in the present context.
Some solutions to be applied to SMEs in Vietnam were recommended; these could be useful for
the Vietnamese government and enterprises leaders to refer to for their own use in the current
international economic integration.
The paper of Laura Bacali – professor of the Technical University Cluj-Napoca, Rumania
– emphasised on the changes in the management of East European enterprises in the
transformation process from planned to market economy in recent years. By using a comparative
study, the author has shown the differences in the approaches to the modern management tools
and concluded that the marketing application is a great interest of Rumanian enterprises.
The third research studied an important topic of the economic transition in Vietnam: the
equitisation of state owned enterprises. Dr. Nguyen Dinh Tai (Central Institute of Economic and
Management) has studied in depth the state owned enterprises from banking sector – a key sector
in the Vietnamese equitisation – and has shown the necessity of equitising the state commercial
banks and the conditions to be applied for the success of their equitisation.
The fourth paper is a summary of MBA dissertation which has been realised and
successfully defensed at CFVG in 2004. Through the case study of a post-equitised company, this
dissertation has shown that the equitisation has not only changed the ownership structure but also
the corporate culture.
6
The following paper is also a summary of a MBA dissertation. This researched a
compatible salary scheme in the post-equitisation context. The author has conducted a survey on
the current situation of the enterprise and recommended to establish a dynamic salary scheme to
motivate the employees contributing to the development of the enterprise.
Finally, a research was made by Truong Thi Nam Thang (CFVG-Hanoi) for the purpose
of learning some lessons from the corporatisation of state owned enterprises in China from the
perspective of corporate governance. The results have shown the shared commonities in the
equitisation in both China and Vietnam, and have recommended some suggestions towards the
Vietnamese government and enterprises in order to ensure the successful equitisation in the
country.
7
Trang
1
17
31
Quản lý trong nền kinh tế chuyển đổi
Phát triển bền vững : một trào lưu hay môt phương
thức quản lý tất yếu đối với DNVVN trong chuyển
đổi kinh tế, áp dụng vào Việt Nam
Georges Hénault
Quản trị và phát triển trong quá trình chuyển đổi
Laura Bacali
Tái cơ cấu doanh nghiệp trong điều
kiện chuyển đổi kinh tế
Được mất cổ phần hoá ngân hàng thương mại quốc
doanh
Nguyễn Đình Tài
Thay đổi văn hoá doanh nghiệp tại SEAREFICO,
một doanh nghiệp mới cổ phần hoá
Bùi Quốc Liêm & Trương Thị Nam Thắng
Đề xuất hệ thống thù lao cho doanh nghiệp mới cổ
phần hoá tại Thành phố HCM
Đoàn Nguyễn Ngọc Quỳnh & Trần Vân Như
Những bài học từ quá trình công ty hoá doanh nghiệp
nhà nước ở Trung quốc : phân tích dưới khía cạnh
quản trị công ty
Trương Thị Nam Thắng
MỤC LỤC
44
74
96
8
Pages
1
Le management en transition
Le développement durable : une mode ou un mode de
gestion irréversible pour les PME des pays en
transition avec quelques applications au Vietnam
Georges Hénault
Management et développement en transition
Laura Bacali
La restructuration des entreprises
dans le contexte de transition
Les enjeux de l’actionnarisation des banques
commerciales étatiques
Nguyen Dinh Tai
Changing Corporate Culture at SEAREFICO, a
Newly-Equitized Enterprise
Bui Quoc Liem & Truong Thi Nam Thang
Suggesting Salary Scheme for Newly-Equitized
Companies in HCM City
Doan Nguyen Ngoc Quynh & Tran Van Nhu
Learning from the Corporatisation of SOEs in China :
A Coporate Governance Perspective
Truong Thi Nam Thang
SOMMAIRE
17
31
44
74
96
9
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG : MỘT TRÀO LƯU HAY PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ TẤT
YẾU ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TRONG CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ, ÁP DỤNG VÀO
TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM?
Georges Hénault
GS Trường Quản lý
Đại học TH Ottawa
Từ khoá : Phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội, các bên hữu quan, nguyên tắc phòng ngừa,
quản lý, doanh nghiệp vừa và nhỏ.
TÓM TẮT :
Phát triển bền vững, nhấn mạnh đến các khía cạnh kinh tế, bảo vệ môi trường và trách
nhiệm xã hội, là xu hướng phát triển tất yếu hiện nay của tất cả các nền kinh tế quốc gia. Tuy
nhiên, đây không chỉ là môi quan tâm riêng của các nhà chính trị hoặc của các doanh nghiệp lớn,
mà trước hết nó là một phương thức quản lý tất yếu và hiệu quả cần triển khai trong các doanh
nghiệp ở mọi qui mô, đặc biệt là trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khuyến khích tiếp cận phát
triển bền vững theo cấp độ kinh tế vùng, tiếp cận thông tin theo mạng và đào tạo về phát triển bền
vững là các hướng giải pháp mà tác giả đề xuất áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt nam dưới ánh sáng của lý thuyết trách nhiệm xã hội, lý thuyết về các bên hữu quan và
nguyên tắc phòng ngừa.
1
GIỚI THIỆU
Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần là sự bảo vệ môi trường vốn được xem như là
trách nhiệm của Nhà nước và của các doanh nghiệp lớn theo quan điểm của chủ nghĩa tân tự do
châu Âu. Nó còn bao gồm cả nghĩa vụ đạo đức « vững mạnh về kinh tế, lành mạnh về môi trường
và trách nhiệm với xã hội » đối với các doanh nghiệp này. Phát triển bền vững cũng liên quan đến
xã hội dân sự và đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo nghĩa rộng, bao gồm cả các tổ
chức dạng hợp tác xã, hiệp hội và tất nhiên là không thể bỏ qua các doanh nghiệp nhỏ chính thức
hoặc không chính.
Sự cần thiết phải phát triển bền vững được khẳng định ngay trong các nghị quyết của Hội
nghị về môi trường của Liên Hiệp Quốc họp tại Stockholm (1972) và được khẳng định lại trong
các Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất tại Rio (1992) và Johannesburg (2002). Chương trình nghị
sự 21 (Agenda 21) của Liên Hiệp Quốc đặt ra thách thức phải dung hoà ba yếu tố (3E)
: bảo vệ
môi trường (Environnement) và phát triển kinh tế (Economique) cùng với công bằng xã hội
(Équité). Phát triển bền vững cũng tỏ ra hài hoà với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ do LHQ
khởi xướng và các kết luận của Hội nghị thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp lần thứ 9 tại
Beyrouth, là cơ sở cho các nghị quyết của Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 10 tại Ouagadougou.
Bằng việc nhấn mạnh khía cạnh khoa học luận về các khái niệm tiên tiến của lý thuyết các
bên hữu quan, lý thuyết về trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp cùng với việc nhấn mạnh
nguyên tắc thận trọng, mục đích của bài viết này là nhằm làm rõ nền tảng cơ bản của một chiến
lược phát triển bền vững cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), nhất là ở các nước đang
chuyển đổi với một số ví dụ về Việt Nam.
PHÁT TRỂN BỀN VỮNG, MỘT PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ TOÀN DIỆN VÀ LÂU DÀI
Một xu hướng rõ nét đánh dấu triển vọng của một phương thức quản lý đang hoàn thiện
(chứ không phải một trào lưu nhất thời). Đây là một chiến lược phát triển bền vững xoay quang
bốn P theo đó sự tiến bộ (Progrès) của các tổ chức đạt được thông qua sự tôn trọng con người
(Personne), tôn trọng hành tinh (Planète) và đảm bảo có lợi (Profits) (Laville, 2002).
Từ đó, chúng ta chỉ ra rằng phát triển bền vững vượt ra ngoài sự tôn trọng môi trường
theo nghĩa sinh thái học. Triết lý quản lý mới này được dựa trên hai lý thuyết và một nguyên tắc :
lý thuyết trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, lý thuyết về các bên hữu quan (stakeholders) và
nguyên tắc thận trọng mà chúng ta đã sơ lược đề cập ở trên.
Về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vốn đã từng là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận
trong nửa cuối thế kỷ 20, dường như đã được thừa nhận như là một phần không thể tách rời trong
sứ mạng và tầm nhìn chiến lược của các doanh nghiệp (
www.wbcsd.org).
Trường phái đạo đức kinh doanh kiểu Mỹ đã nêu bật bốn loại trách nhiệm : trách nhiệm
kinh tế (sản xuất sản phẩm dịch vụ và tạo ra lợi nhuận), trách nhiệm pháp lý (nghĩa vụ pháp lý đã
được quy tắc hoá cần tuân thủ), trách nhiệm đạo đức (nghĩa vụ đạo đức không được quy tắc hoá)
và tự chịu trách nhiệm (hành vi vượt trên sự kỳ vọng của xã hội); tuy nhiên bốn loại trách nhiệm
2
này không phải là duy nhất. (Ballet, J. et De Bry, F., 2001). Chúng ta cũng có thể hiển thị theo
cách thức của Maslow và đặt nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận xuống dưới cùng của tháp Maslow, sau
đó đến sự tuân thủ pháp luật, rồi đến hành vi đạo đức và trên cùng là nghĩa vụ xã hội, như trong
hình 1 dưới đây.
Hình 1 : Các cấp độ trách nhiệm của doanh nghiệp
ĐẠO ĐỨC
KINH TẾ
PHÁP LÝ
XÃ HỘI
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đòi hỏi từ phía các doanh nghiệp một hành vi đạo đức,
một số tác giả thậm chí đã đề xuất một cuộc cách mạng công nghiệp mới dựa trên cơ sở « chủ
nghĩa tư bản tự nhiên » xuất phát từ hệ tiến hoá sau đây : môi trường không phải là một nhân tố
sản xuất thứ yếu, mà nó bao bọc, cung cấp và hỗ trợ toàn bộ nền kinh tế (Hawken, P., Lovins A.
and Hunter-Lovins, L., 1999).
Các bên hữu quan : đối tác quan trọng của phát triển bền vững.
Các phân tích thể chế, nghiên cứu phản ứng của các doanh nghiệp đối với các sức ép bên
ngoài, dựa trên nguyên tắc tính hợp pháp xã hội theo đó xã hội trao cho họ quyền tiến hành sản
xuất với điều kiện phải phù hợp với các tiêu chuẩn luật pháp và đạo đức hiện tại (Ballet et De
Bry, 2001). Trong khi đó, tính hợp pháp xã hội này lại có quan hệ chặt chẽ với sự nhận thức và
lợi ích không chỉ của các đối tác của doanh nghiệp mà còn của các thành viên trong xã hội dân
sự, từ đây được gọi chung là các bên hữu quan. Freeman (1984) đã cụ thể hoá khái niệm này khi
khẳng định một bên hữu quan trong một tổ chức (theo định nghĩa) là mọi nhóm hoặc cá nhân có
ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức ». Sơ đồ sau đây tổng
hợp các bên hữu quan cùng với các thị trường khác nhau.
Hình 2 : Các bên hữu quan và thị trường của họ
Bên hữu quan Thị trường
Thượng nguồn
Cổ đông
Nhà cung cấp
Tài chính
Cung ứng
Nội bộ / Bên ngoài
Nhân viên
Nguồn nhân lực
Hạ nguồn
Khách hàng
Xã hội dân sự
Tiêu dùng
Dư luận xã hội
3
Vai trò và sức ép của các bên hữu quan đòi hỏi doanh nghiệp lựa chọn chiến lược phát
triển bền vững ngày càng trở thành một ưu tiên và sẽ được cụ thể hoá trong phần sau.
Nguyên tắc phòng ngừa
Từ sau Hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992, nguyên tắc phòng ngừa được khẳng định là
điều cốt yếu trong quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về hệ sinh thái. Nguyên tắc này dựa trên yêu
cầu ngày càng cấp bách sau một loạt các thảm hoạ (Bohpal, Tchernobyl, vv ) mà thế giới đã
phải gánh chịu và buộc những người có trách nhiệm phải tính đến nhu cầu này trong việc đánh
giá các rủi ro tiềm năng. Nguyên tắc phòng ngừa này là một dấu mốc mới trong quản lý rủi ro, nó
không đợi đến khi các mối nguy hiểm xuất hiện mà chủ động đưa ra các phương tiện phòng ngừa
với chi phí có thể chấp nhận (Canel-Depitre, B., 2001).
SỨC ÉP ĐI THEO CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐỐI VỚI CÁC DNVVN
TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Hai quan niệm sai lầm cần loại bỏ
Chúng liên quan đến các nguyên nhân cưỡng lại sự thay đổi của những người có trách
nhiệm và do đó phủ nhận cơ sở của phát triển bền vững đối với chính doanh nghiệp của họ.
Trong số các quan niệm này phải kể đến một niềm tin lệch lạc rằng các DNVVN không liên quan
đến vấn đề phát triển bền vững và nhất là đối với những DNVVN tại các nước đang phát triển
(Laville, 2002) .
1- Các DNVVN không có phương tiện để thực hiện chính sách này. Một lập luận rối trá bởi vì
về quan niệm hiệu quả môi trường (éco-eficacité) chẳng hạn, nó nhắm tới việc giảm tiêu hao
năng lượng, giảm thiểu việc tạo ra chất thải và quản lý tốt hơn việc giảm, sử dụng lại và tái
chế các loại bao bì (ba R : réduction, réutilisation, recyclage). Quan niệm này trở thành chất
xúc tác cho các cải tiến công nghệ, cho phép tạo ra những sản phẩm mới ít gây ô nhiễm hơn
và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường đối với các sản phẩm an toàn về mặt sinh
thái.
2- Phát triển bền vững không phù hợp với các nước đang phát triển. Thực tế đang chứng tỏ điều
ngược lại. Trên thực tế, các cải tiến công nghệ nhờ nguồn tài chính vi mô được Grameen
Bank khởi xướng tại Bangladesh đã góp phần làm giảm sự bất công bằng xã hội. Các tiến
trình thương mại bình đẳng đối với các nước phía Nam cũng đi theo hướng này.
Thêm vào đó, cách tiếp cận ngắn hạn này che bớt tiềm năng sáng tạo sản phẩm mới như các
sản phẩm nông nghiệp sinh học và sự đa dạng hoá các thị trường xuất khẩu tới các nước
Triade.
Sức ép của các bên hữu quan
Chúng ta sẽ minh hoạ ảnh hưởng của các ngân hàng, khách hàng và hệ thống pháp lý.
4
1- Kỳ vọng mới của các đối tác và trung gian tài chính : khi xét duyệt tài trợ cho các dự án, các
ngân hàng ngày càng quan tâm đến các tiêu chí về môi trường. Rủi ro sinh thái-tài chính
(écologico-financier) trên thực tế là một trong những nền tảng của nguyên tắc phòng ngừa.
2- Nhu cầu thông tin ngày càng tăng từ phía các khách hàng nước ngoài : các khách hàng này,
do bị thúc ép bởi dư luận xã hội về cam kết chính trị và sức ép từ phía các phương tiện thông
tin đại chúng cũng như các tổ chức bảo vệ môi trường, đòi hỏi các đối tác phía Nam (các
nước đáng phát triển) cung cấp nhiều hơn các thông tin về điều kiện sản xuất. Nhu cầu tạo lập
lòng tin của các doanh nghiệp và nhất là các doanh nghiệp Việt nam với tư cách là nhà cung
cấp hay gia công, thông qua việc tôn trọng các chuẩn mực về môi trường (tiêu chuẩn ISO
14001) và chuẩn mực xã hội (tiêu chuẩn SA 8000 liên quan đến điều kiện làm việc chẳng
hạn), được xem như là không thể lảng tránh. Trên thực tế, sự hiểu biết văn hoá đạo đức của
khách hàng ngày càng trở thành cấp thiết, nó được đặc trưng bởi « 10 điều răn của một nhà
quản lý có đạo đức » (Declairieux, 2003), theo đó sự cần thiết phải tôn trọng các giá trị kỳ
vọng của các bên hữu quan được tuyên bố, với một chút hài hước, như sau : bạn sẽ không sử
dụng lao động trẻ em, hay bạn sẽ đối xử bình đẳng với các nhà cung cấp của bạn, vv. Việc
tập đoàn Carrefour tiến hành hàng loạt các cuộc kiểm tra các nhà thầu gia công ở châu Á là
một minh chứng điển hình cho điều này.
3- Nghĩa vụ pháp lý phải tăng cường thông tin về một hay nhiều mặt của hiệu quả sinh thái : các
tiêu chuẩn lựa chọn các chỉ tiêu phải : xác đáng, đáng tin cậy, có thể so sánh (theo thời gian
và theo các chuẩn mực đã được thiết lập), có thể kiểm tra, có thể đo lường, có hiệu lực, có ý
nghĩa, minh bạch, có tính đại diện, có khả năng thích ứng, với số lượng hạn chế và đầy đủ
(Table ronde, 1997, p. 9 et 65).
Ba thách thức thay đổi văn hoá tổ chức
Các yếu tố nội bộ thúc đẩy ban lãnh đạo doanh nghiệp chuyển hướng phát triển bền vững
được bắt đầu một cách hoàn toàn tự nhiên nhờ việc nhận thức về tính cấp thiết của sự chuyển
hướng này, vì lý do phản ứng (chi phí và sức ép của các bên liên quan) và lý do hiệu quả (đầu tư
và lợi thế kinh tế cạnh tranh kèm theo). Chiến lược phát triển bền vững được xây dựng xoay
quanh ba cực, đòi hỏi giảm thiểu sự cản trở thay đổi đối với mọi loại hình tổ chức, sau đây :
1- Quản lý rủi ro theo nguyên tắc phòng ngừa cho phép dự tính trước và cảnh báo các nguy hiểm
và kích thích tiềm năng cải tiến công nghệ.
2- Chấp thuận các chuẩn mực của phát trển bền vững, tạo ra một nhu cầu minh bạch được cụ thể
hoá thông qua việc công bố thông tin về các hành động của doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Qua đó, nó cho phép tăng cường sự giao tiếp nội bộ đối với các nhân viên của doanh nghiệp
và đối với bên ngoài, tập trung vào trách nhiệm xã hội đối với các bên hữu quan như thôn xã,
các bộ ngành liên quan, nhà bảo hiểm, người có quyền và các tổ chức bảo vệ môi trường
(Gendron, 2004). Nhờ vậy, tiến trình này tạo cho doanh nghiệp một vị thế khác biệt và cạnh
tranh tương tự như một doanh nghiệp có danh tiếng.
3- Việc triển khai các liên minh chiến lược với các bên hữu quan trong khuôn khổ phát triển bền
vững tạo điều kiên quản lý hiệu quả hơn và trở thành nguồn sáng tạo giá trị cho doanh nghiệp
đồng thời với hiệu quả sinh lợi tài chính cao hơn. Các thoả thuận nhượng quyền là một trong
5
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét