CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ
CỦA GIA ĐÌNH.
Trong đời sống con người gia đình là môi trường đầu tiên có
tác động to lớn đến sự hình thành và phát triển của con người về tinh
thần cũng như thể chất. Gia đình có ảnh hưởng sâu sắc tới nhân cách,
lối sống của mỗi người, góp phần tích cực xây dựng thái độ của con
người đối với xã hội… Gia đình đã tồn tại từ rất sớm trong sự phát
triển của nhân loại. Nhưng nghiên cứu lịch sử hôn nhân và gia đình
bắt đầu muộn hơn nhiều so với lúc nó ra đời. Ăng-ghen trong tác
phẩm kinh điển “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của
nhà nước” cho rằng từ 1861 trở về trước chưa nói gì được về lịch sử
nghiên cứu hôn nhân và gia đình. Ông khẳng định lịch sử nghiên cứu
hôn nhân và gia đình chỉ thực sự bắt đầu từ lúc Ba-Cô-Phen cho ra
đời tác phẩm “Mẫu quyền” (1861) - trong tác phẩm này Ba-Co-Phen
cho rằng lúc đầu loài người sống trong tình trạng tạo hôn, con cái
sinh ra không biết bố mà chỉ biết mẹ… Ba-Co-Phen còn nói thêm
rằng : về sau mẫu quyền mới nhường chỗ cho phụ quyền. Bước phát
triển tiếp theo trong sự nghiên cứu gia đình gắn với công trình
“nghiên cứu lịch sử cổ đại - Hôn nhân nguyên thuỷ” của Mác-Len
nam xuất bản 1866. Công lao của nhà khoa học này là khám phá ra
thiết chế ngoại hôn, tức hôn nhân ngoại tộc và cho ngoại hôn có tính
phổ biến của nhân loại. Nhưng rõ ràng lịch sử nghiên cứu vấn đề gia
đình thực sự bước sang một giai đoạn mới khi tác phẩm “xã hội cổ
đại” của nhà dân tộc học này L Mooc-gan ra đời (năm 1871) L Mooc-
gan là người đầu tiên đã dựng lại lịch sử loài người thông qua năm
hình thái gia đình sau :
5
- Gia đình huyết tộc
- Gia đình Panalua
- Gia đình đối ngẫu.
- Giađình phụ hệ gia trưởng
- Gia đình một vợ một chồng.
Thế nhưng thành tựu mới của khoa học ngày nay đã bác bỏ sơ
đồ của L Mooc-gan về năm hình thái gia đình nói trên. Nhiều người
cho rằng loài người không trải qua hình thái gia đình huyết tộc trong
đó anh chị em là vợ chồng của nhau. Loài người cũng không trải qua
hình thái gia đình Panalua theo đó một nhóm anh em trai lấy một
nhóm phụ nữ bất kỳ và trái lại một nhóm chị em gái lấy một nhóm
đàn ông bất kỳ. Hình thức hôn nhân này nếu có chỉ là một dạng của
quần hôn. Đồng thời với việc bác bỏ sơ đồ của L mooc-gan về cái
hình thái gia đình các nhà khoa học trên thế giới hiện nay về cơ bản
đã thống nhất được cách phân loại gia đình mới là :
- Gia đình lớn (hay đại gia đình).
- Gia đình nhỏ (hay tiểu gia đình).
Tồn tại như một thiết chế xã hội, gia đình luôn phải đảm bảo
những chức năng cơ bản như chức năng sinh học, chức năng kinh tế,
chức năng giáo dục, chức năng xã hội, chức năng văn hoá… Những
chức năng này tồn tại lâu dài cùng với sự tồn tại của gia đình và phản
ánh bản chất của gia đình tộc người. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều
kiện cụ thể và do ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài vào, các chức năng
của gia đình có những thay đổi nhất định.
*Chức năng tái sản xuất con người.
6
Tái sản xuất ra con người là chức năng cơ bản và vĩnh cửu của
gia đình nhằm duy trì, phát triển nòi giống. Không có chức năng này
thì gia đình dòng họ, dân tộc, không tồn tại được. Đối với nhiều dân
tộc trên thế giới, đặc giệt với phương Đông những nơi theo khổng
giáo và trong đó có Việt Nam việc nối dõi tông đường được xem
trọng thì chức năng này có ảnh hưởng to lớn tới đời sống gia đình.
*Chức năng kinh tế :
Chức năng kinh tế là một chức năng không thể thiếu được của
gia đình. Lịch sử của loài người đã chứng mình rằng gia đình dù là
đại gia đình hay tiểu gia đình đều là một đơn vị kinh tế. Thực hiện
chức năng kinh tế, mọi thành viên trong gia đình đều phải lao động
sản xuất và cùng hưởng thụ thành quả của lao động.
*Chức năng giáo dục :
Gia đình là nơi trưởng thành cái nôi đầu tiên để từ đó con
người bước ra ngoài xã hội, hình thành nhân cách… Ảnh hưởng tác
động của gia đình đối với các thành viên hết sức to lớn. Trong giai
đoạn hiện nay cái tôi cá nhân được khẳng định thì trước hết nó phải
được gia đình chấp nhận sau đó mới tới xã hội và cái tư tưởng “một
giọt máu đào hơn ao nước lã” vẫn còn nguyên giá trị.
*Chức năng xã hội :
Gia đình đã được pháp luật quốc tế công nhận từ năm 1984, khi
tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng liên
hợp quốc công nhận. Trong tuyên ngôn đó có ghi rõ : “Gia đình là
một đơn vị tự nhiên và cơ bản của xã hội” (điều 16-3) và “nam giới
và phụ nữ đến tuổi trưởng thành, không có bất kỳ sự hạn chế nào về
chủng tộc, quốc tịch hoặc tôn giáo đều có quyền kết hôn và lập gia
7
đình (điều 16-1). Như vậy chức năng xã hội của gia đình được thể
hiện đầu tiên ở khía cạnh : Gia đình là một đơn vị cơ bản của xã hội,
gia đình gắn bó với xã hội. Xã hội loài người tồn tại thông qua sự tồn
tại của gia đình. Ở nước ta nhiều gia đình cùng huyết thống làm nên
dòng họ…
*Chức năng văn hoá :
Chức năng văn hoá là một trong những chức năng trọng yếu
của gia đình. Gia đình làm nhiệm vụ giữ gìn truyền thống tốt đẹp từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình là nơi gìn giữ, phát huy bản
sắc, bản lĩnh văn hoá dân tộc, hình thành và phát triển những yếu tố
văn hoá mới phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Hơn nữa gia đình
còn là nơi chống lại mọi sự đồng hoá văn hoá một cách tích cực.
Điều này đặc biệt quan trọng khi nước ta luôn bị ngoại bang thống
trị, hay trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế - văn hoá với bên
ngoài và trong điều kiện do sự phát triển của khoa học kỹ thuật nên
nhịp độ quốc tế hoá đời sống các dân tộc ngày một tăng… Hơn nữa
gia đình còn là nơi tiếp thu và phát triển các truyền thống văn hoá
dân tộc. Các giá trị văn hoá dân tộc được lưu giữ, làm phong phú
thêm trong các gia đình. Con người lớn lên nối tiếp nhau gìn giữ bản
sắc văn hoá dân tộc chính là nhờ chiếc nôi đầu tiên ấy là gia đình.
II. CÁC MỐI QUAN HỆ CƠ BẢN TRONG GIA ĐÌNH VIỆT
NAM:
1. Quan hệ gứa vợ - chồng :
Mối quan hệ vợ chồng ở mỗi hình thái gia đình có sự khác
nhau. Ở hình thái gia đình của xã hội phong kiến, người vợ trở thành
người đầy tớ chính và không được tham gia vào sản xuất xã hội. Gia
đình phong kiến Phương Đông theo mẫu hình nho giáo thì quyền lực
8
thuộc về nam giới “phụ-xướng/Phụ-tuỳ” (chồng nói/vợ làm theo) cao
hơn một chút phu-nghĩa/phụ-kính (chống có nghĩa vợ kính trọng).
Tuy vậy trong xã hội cổ truyền Việt Nam có ảnh hưởng của nho giáo
song các giá trị văn hoá gai đình bản địa vẫn được lưu giữ trong sự
ứng xử giữa vợ - chồng. Chẳng hạn các giá trị “hoà thuận” (thuận vợ
thuận chồng tát biển đông cũng cạn), “thuỷ chung” (“ở sao chung
chuỷ vẹn toàn” - “vợ chồng là nghĩa tao khang”) hay giá trị về “bình
đẳng” (“của chồng công vợ”, “chồng nhữ giỏ,vợ như hom”, “lệnh ông
không bằng cồng bà”) v.v…
Trong gia đình hiện đại, quan hệ vợ chồng được xây dựng trên
cởơ tình yêu chân chính, sự bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Những
giá trị đó được biểuhiện trong việc lựa chọn vợ hoặc chồng một cách
tự do của những người trong độ tuổi thành hôn, trong việc tham gia
lao động, công việc xã hội, trong việc đóng góp và hưởng thụ tài sản
gia đình, trong việc quyết định những vấn đề chung của gia đình giữa
vợ và chồng. Luật hôn nhân và gia đình của ta là sự thể hiện và là cơ
sở pháp lý bảo vệ những giá trị tốt đẹp. Ngoài ra tập quán mới và sức
mạnh dư luận xã hội cũng là điều kiện bảo vệ và duy trì những giá trị
đó.
2. Quan hệ giữa cha mẹ - con cái
Quan hệ này bao gồm sự ứng xử của cha mẹ với con cái và sự
ứng xử của con cái đối với cha mẹ. Mối quan hệ này được biểu hiện
trong các hình thái gia đình cũng khác nhau. Trong gia đình phong
kiến thì cha mẹ có uy quyền tuyệt đối đối với con cái. Cha mẹ có
quyền quyết định mọi công việc về con cái “cha mẹ đặtđâu con ngồi
đấy” từ việc học hành, chọn nghề nghiệp, chon “bạn trăm năm”.
Nhưng đồng thời văn hoá gia đình phong kiến cũng dạy người ta
9
“phụ từ” (cha phải hiền từ) có trách nhiệm nuôi dưỡng giáo dục con
cái. Ứng xử của con cái đối với cha mẹ được biểu hiện ở chữ “hiếu”
hay “đạo hiếu”. Con cái phục tùng cha mẹ, kính trọng bề trên và phải
thờ phụng tổ tiên. Con cái phải nghe lời cha mẹ, phải làm theo nghề
nghiệp của cha mẹ và phải làm vẻ vang cha mẹ.
Ở gia đình truyền thống Việt Nam, các giá trị văn hoá biểu hiện mối
quan hệ cha mẹ - con cái vừa mang tính cổ truyền bản địa vừa mang
tính phong kiến nho giáo. Chúng được biểu hiện tinh tế và sâu sắc,
đối với cha mẹ con cái là người nối dõi tổ tông là niềm hạnh phúc :
“Có vàng vàng chằng hay phô, có con con nói trầm trồ dễ nghe” (ca
dao). Con cái là chỗ dựa của cha mẹ khi về già (cả về giá trị kinh tế
và giá trị tinh thần : “Trẻ cậy cha, già cậy con” (tục ngữ). Con cái đối
với cha mẹ phải biết đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục, phải
kính trọng vâng lời nghĩa là phải làm tròn bổn phận “đạo làm con”.
Nếu sau khi lấy vợ thấy chồng hay gọi cách khác “lập gia đình” thì
họ vẫn có bổn phận chịu ơn nghĩa đối với cha mẹ như trước và họ
vẫn biết vâng lời, kính trọng cha mẹ trong lúc còn sống. Về phía cha
mẹ khi con cái họ đã ra ở riêng họ vẫn có bổn phận đối với con cái,
phải dạy bảo chúng và giúp chúng sửa chữa những thói hư tật xấu
hoặc nâng đỡ con cái khi chúng thất bại.
Ở gia đình hiện đại những giá trị truyền thống tốt đẹp đó đựơc
gìn giữ và phát triển. Tinh thần thương yêu, sự hy sinh của cha mẹ và
con cái và sự kính trọng biết ơn và hiếu thảo của con cái đối với cha
mẹ. Song nhiều yếu tố bảo thù trong mối quan hệ này vẫn tồn tại
hoặc có sự biến động thái quá, dẫn đến những tiêu cực trong gia đình.
3. Quan hệ giưa anh- chị - em trong gia đình.
10
Trong gia đình phong kiến trước kia đề cao vai trò của các anh
em trai đối với các chị em gái “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”.
Gia đình phong kiến nho giáo đề cao vai trò con trưởng (chủ yếu là
con trai trưởng) “quyền huynh thế phụ” (anh có quyền thay cha)
trong mọi quyết định đối với các em. Ngược lại các em phải phục
tùng anh trai (hoặc chị phục tùng em trai) như phục tùng cha mẹ nên
“hiểu” đi đối với “để” các giá trị mà họ phải tuân thủ trong gia đình
truyền thống vn, quan hệ giữa anh - chị - em là quan hệ “luật là máu
mủ” thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, “trên kính dưới nhương” hoà
thuận và gắn kết “máu chảy ruột mềm” “khôn ngoan đối đáp người
ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”. Hiện nay các giá trị này
vẫn được củng cố trong các gia đình hiện đại nhưng môi trường sống,
tình hình thời thế có nhiều thay đổi dẫn đến những giá trị nàycó
nhiều biểu hiện tích cực song không ít những mặt hạn chế.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ MỚI TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY.
1. Căn bệnh thế kỳ và các tệ nạn xã hội khác ảnh hưởng tới
đời sống gia đình .
Thực tế cho thấy rằng : Sự phát triển của khoa học kỹ thuật của
lao động sản xuất làm cho đời sống của nhân dân không ngừng được
nâng cao, cuộc sống ngày nay không chỉ đơn giản “ăn no mặc ấm”
mà đã là “ăn ngon mặc đẹp”; “ăn kiêng mặc mốt”. Do kinh tế thị
trường phát triển, nhà nhà cóbát ăn bát để, mọi ngời có điều kiện tự
do phát triển cá nhân đồng thời với những mặt tích cực đó thì các tệ
nạn xã hội rồi sự lây lan của đại dịch SIDA khiến biết bao gia đình
đổ vỡ tan nát. Sự buông thả chỉ biết hưởng thụ của một số con nhà
giàu, sự thiếu quan tâm chăm sóc của cha mẹ tới con cái khiến chúng
11
trở nên hư hỏng. Mặt khác là sự suy thoái đạo đức của một số cá
nhân và rất nhiều nguyên nhân khác hiến cho các tệ nạn xã hội phát
triển mạnh trong những năm gần đây. Mại dâm cờ bạc, rượu chè, hút
hít đó là những lý do khiến các gia đình khuynh gia bại sản, li tán,
tù tội Các gía trị văn hoá truyền thống cũng như các mối quan hệ
cơ bản trong gia đình bị sáo chộn, không có tiền để cờ bạc, hút hít,
chồng đánh vợ, con đánh cha mẹ Trộm cắp gia đinh hết chuyển
sang họ hàng rồi đến cảnh ra đường “giết người cứơp của” Khiến
không ít những cảnh đau xót đã xảy ra.
Mại dâm, tiêm chích đó là hai con đường chủ yếu dẫn tới căn
bệnh thế kỷ. Có hàng vạn lý do và con đường dẫn tới căn bệnh có
người sống lành mạnh nhưng do một vài lý khách quan đem lại, phải
nói những trường hợp đáng tiếc như thế là có nhưng rất ít chủ yếu là
lối sống buông thả, dễ dãi mà dẫn tới căn bệnh quái ác ấy. Cho tới
nay chưa có một loại thuốc nào chữa trị để khỏi hẳn, và những loại
thuốc dùng để chữa trị căn bệnh này là rất đắt không phù hợp với số
đông bệnh nhân mắc bệnh. Khi những người bị SIDA ngoài sự chán
chường thất vọng của bản thân họ còn gặp phải sự xa lánh, kỳ thị của
người thân và xã hội, nhiều người coi họ không phải là con người,
không những không giao lưu tiếp xúc mà còn có những lời nhục họ,
mỉa mai Tạo ra một sự mất thăng bằng trong mối quan hệ giữa
những người mắc bệnh và những người lành bệnh khiến căn bệnh này
càng dễ lây lan. Hiện nay rất ít những trường hợp bị bệnh tự đến báo
cáo với chính quyền, các cơ quan có thẩm quyền, trách nhiệm ở địa
phương mà họ thường im lặng. Họ sợ khi biết sự thật người thân sẽ
“xấu hổ, nhạc nhã”, “cộng đồng sợ hãi khi giao tiếp ”. Tốt hơn là im
lặng trừ khi không thể giấu.
12
Khi những gia đình có người bị nhiễm căn bệnh này không phải
gia đình nào cũng có những hành động đúng mà có rất nhiều những
xung đột xayra. Hơn nữa một số người vẫn không từ bỏ được cờ bạc,
rượu chè, hút hít càng làm cho mâu thuẫn gia đình lên tới đỉnh
điểm. Các gia đình có thành viên mắc vào các tệ nạn xã hội. Khi đời
sống của gia đình đó luôn là một bài toán khó giải, nó cần sự nỗ lực
cố gắng của mọi thành viên và sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng.
2. Bạo lực trong gia đình
Mặc dù có nhiều tiến bộ trong việc bình đẳng giới và đấu tranh
chống lại bạo lực nhưng dường như bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em
vẫn không dừng lại mà thậm chí có chiều hướng gia tăng - nhất là
bạo hành tình cục trẻ em. Lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề nhạy
cảm và tế nhị nên ít có số liệu được công bố hay có đi chăng nữa thì
số liệu đó cũng chỉ phản ánh một phần rất nhỏ của thực trạng này.
UINICEF ước tính hàng năm có một triệu trẻ em bị lạm dụng tình
dục. Riêng ở Việt Nam trong hai năm 2000 và 2001 có 37 trường hợp
trẻ em và trẻ vị thành niên bị xâm hại tình dục đã đến khám chứng
thương tại bệnh viên bảo vệ Bà mẹ trẻ sơ sinh. Tại Toà án nhân dân
tối cao, theo thống kê chưa đầy đủ thì năm 1997 có 86 vụ giao cấu
với trẻ em từ 1 đến 15 tuổi đã được đưa ra xét xử với 101 bị cáo. Đây
là chỉ số đáng buồn và đáng báo động bởi tình trạng xâm hại tình dục
trẻ em đang gia tăng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, song căn bản
nhất vẫn do luật pháp chưa nghiêm, văn hoá phẩm đồi truỵ được nhập
lậu ồ ạt và thái quá “nghiện phim mát” của các đấng mày râu đã kích
thích trí tò mò dẫn đến việc hành lạc trên cơ thể những em bé chưa
trưởng thành. Đau lòng hơn có lẽ là chuyện một bé gái chưa đến một
13
tuổi nhưng bị một thanh niên hãm hại vì sự thác loạn mang tính bệnh
hoạn. Trong một phiên toà gần đây tại Hà Nội, bị cáo là một thanh
niên chưa đến tuổi 20. Thủ phạm thú nhận đã giao cấu với bé gái mới
bằng tuổi em gái chỉ vì cậu muốn thoả mãn trí tò mò vì những gì
mình được xem trộm qua bằng video vào đêm hôm trước. Ngoài ra
một số vụ xâm hại tình dục trẻ em mà nguyên nhân là do kẻ bạo hành
có sử dụng chất kích thích : rượu, ma tuý
Bạo hành tình dục không những đề lại nỗi đau đớn về thể chất
mà còn hằn sâu trong tâm thức đứa trẻ và cả người thân trong gia
đình, nỗi đau tinh thần dai dẳng đến suốt đời. Mặc cảm tội lỗi rằng
mình không còn trong sạch sẽ đeo đẳng suốt đời với sự ăn năn, tự ti
dẫn đến trầm uất. Trong khi đó những kẻ lạm đụng hoặc tấn công tình
dục trẻ em phần lớn là những người quen biết, thậm chí họ có mối
quan hệ thân thiết với gia đình người bị hại nên tội ác của chúng
không những không bị vạch trần mà còn được bao biện để tranh tai
tiếng cho gia đình và tổn thương cho trẻ. Đây là điều nhức nhối nhất
mà không phải ông bố bà mẹ nào cũng dám vượt qua để công khai
danh tích của kẻ đã từng hãm hại con mình bởi biết đâu chỉ vì
“chuyện ây” mà sau này không ai dám kết hôn với con gái họ. Một
người đã không còn trinh tiết (?)
Hiện nay vấn đề bạo lực trong gia đình nói chung và bạo lực
tình dục xảy ra phỏ biến ở hầu hết ở các tình thành trong cả nước,
những con số thống kế số vụ bạo hành trong gia đình so với thực tế là
quá ít. Thông thường chỉ những vụ án điển hình, thực sự gây hậu quả
nghiêm trong bị xã hội lên án mới bị khởi tố. Theo báo cáo tổng kết 8
năm thực hiện luật hôn nhân gia đình của Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội, nguyên nhân ly hôn do bị đánh đập, ngược đãi là 7.372 vụ
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét