Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Nghien cuu dac diem phan bo theo sinh canh va moi quan he sinh thai cua quan the bo tot

5
c - Nghiên cứu mối quan hệ sinh thái giữa loài bò tót với các loài thú móng
guốc khác.
d - Nghiên cứu một số tập tính hoạt động của loài bò tót trong các sinh cảnh: i)
Sự di chuyển theo ngày, mùa; hoạt động kiếm ăn, trú ẩn, sinh sản; ii) Sự cạnh tranh
không gian sống với các loài thú móng guốc khác.
đ - Dự báo diễn biến kích thớc quần thể loài bò tót trong thời gian tới.
e - Đánh giá các mối đe dọa và thách thức đối với bò tót và sinh cảnh của
chúng: i) Tác động của các chủ trơng, chính sách của Nhà nớc đến sự tồn tại và
phát triển của quần thể bò tót; ii) Các thuận lợi, khó khăn, thách thức đối với công
tác bảo tồn quần thể và sinh cảnh của bò tót ở VQG Cát Tiên.
g - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý bảo tồn quần thể bò
tót ở VQG Cát Tiên.
4 - Đối tợng nghiên cứu:
Đối tợng nghiên cứu là loài bò tót ở VQG Cát Tiên. đặc điểm phân bố theo
các sinh cảnh của bò tót và các mối quan hệ sinh thái của chúng ở VQG Cát Tiên.
5 - Phạm vi nghiên cứu:
luận án có nội dung nghiên cứu sâu, địa bàn nghiên cứu rộng. Do thời gian có
hạn, tác giả tập trung nghiên cứu, điều tra và giám sát quần thể bò tót ở một số khu
vực bò tót thờng xuất hiện và nghiên cứu một số sinh cảnh đặc trng của chúng ở
VQG Cát Tiên.
6 - Những đóng góp mới của luận án:
Về khoa học, luận án đóng góp các t liệu khoa học về sinh thái học cá thể và
sinh thái học quần thể bò tót. Xác định các sinh cảnh đặc trng của loài bò tót ở
VQG Cát Tiên.
Về thực tiễn, luận án cung cấp cơ sở khoa học cho Ban quản lý VQG Cát Tiên
giám sát diễn biến số lợng quần thể loài bò tót; Cung cấp cơ sở dữ liệu để các nhà
quản lý đề ra các chủ trơng quản lý thích hợp phục vụ cho công tác bảo tồn.
Ngoài ra, loài bò tót còn là nguồn gen quan trọng để cải tạo đàn bò nuôi. Bảo
tồn nơi sống và sinh cảnh cho loài bò tót chính là bảo tồn quần thể bò tót tránh đợc
những nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh, bảo tồn nguồn gen hoang dã quý hiếm [84].
6
CHƯƠNG 1 - TổNG QUAN các vấn đề NGHIÊN CứU
1.1 Họ Trâu bò (Bovidae)
Họ Trâu bò (Bovidae) có 8 họ phụ Aepycerotinae, Alcelaphinae, Antilopinae,
Bovinae, Caprinae, Cephalophinae, Hippotraginae, Reduncinae, gồm 50 chi và 393
loài và phân loài [102], trong đó có 132 loài có tên trong Sách đỏ IUCN [82].
Các loài trong họ Trâu bò dễ dàng nhận biết với thân hình to lớn, khỏe, có 1
cặp sừng cả con đực và con cái, không rụng, mọc ngay ở trớc trán. Sừng mọc thẳng
từ gốc và uốn cong vào phía trong, có màu xanh ở phần gốc, đen ở phần đỉnh. Mỗi
chân có 2 móng guốc, không có móng 1, 2 và móng 5. Tất cả chúng đều là loài nhai
lại với bao tử có 4 ngăn. Có một số loài luôn giữ cấu trúc đàn với sự hiện diện của
con cái với tỷ lệ thấp hoặc thậm chí không có con cái [100].
Đầu thế kỷ XVI, họ Trâu bò có 12 loài bò hoang dã phân bố trên khắp các
châu á, châu Âu, châu Phi và Bắc Mỹ [84]. Ngày nay họ Trâu bò chỉ còn lại 10 loài
[84], giới hạn trong những quần thể nhỏ và phân tán ở một vài quốc gia. Loài bò
xám (Bos sauveli) và bò Auroch (Bos primigenus) đợc cho là đã tuyệt chủng. Loài
trâu nớc (Bubalus arnee) cũng chỉ còn một vài cá thể phân tán ở châu á. Nếu
không đợc quản lý đúng mức, loài này sẽ bị tuyệt chủng trong tơng lai gần [84].
ở Việt Nam, họ Trâu bò có 2 họ phụ là Bovinae và Caprinae, trong đó có 6
loài là bò tót (Bos gaurus), bò rừng (Bos javanicus), bò xám (Bos sauveli), trâu rừng
(Bubalus bubalis), sơn dơng (Nemorhaedus sumatraensis) và sao la (Pseudoryx
nghetinhensis) [4]. Các loài thú trong họ Bovidae ở Việt Nam đều nằm trong Sách đỏ
IUCN và Sách đỏ Việt Nam [1],[82].
1.2 Loài bò tót
1.2.1 Vị trí phân loại
- Tên khoa học: Bos gaurus C.H. Smith, 1827 [1],[33],[37],[42],[84].
- Tên đồng nghĩa: Bos frontalis Lambert, 1804 [4],[20],[102].
- Tên Việt Nam: Bò tót, min (Việt), Ngua pá (Thái), Tà sù (Hmông), Zông
(Cà Tu), Lâu Tằm (Ê đê), Sơn ngâu (Vân Kiều), Kờ bay (Xê đăng), Miềm (Chăm)
[1],[4].
7
- Tên tiếng Anh: Gaur [1],[4],[20],[33],[37],[65],[87],[102].
Phân họ (Subfamilia): Bovinae; Họ (Familia): Bovidae; Bộ (Ordo):
Artiodactyla; Lớp (Class): Mammalia; Ngành (Phylum): Chordata; Giới (Kingdom):
Animalia [84].
Bò tót có 3 phân loài [84]:
- Bos gaurus gaurus (Indian Bison): Phân bố ở ấn Độ, phía Nam Nê-pal.
Chúng là phân loài phổ biến nhất, chiếm khoảng 90% các quần thể bò tót trên thế
giới.
- Bos gaurus hubbacki (Malayan Gaur hoặc Seladang): Phân bố ở Nam Thái
Lan và bán đảo Ma-lai-xi-a. Chúng là phân loài nhỏ nhất của bò tót.
- Bos gaurus laosiensis (South East Asian Gaur): Phân bố từ Myanmar, Lào,
Việt Nam, Căm-pu-chi-a và phía Nam Trung Quốc. Chúng là phân loài đang bị đe
dọa cao nhất. Phân bố ở khu BTTN Xishuangbanna, phía Nam tỉnh Vân Nam, Trung
Quốc, VQG Cát Tiên (Việt Nam) và VQG Virachey (Căm-pu-chi-a).
Bò tót ở VQG Cát Tiên là phân loài Bos gaurus laosiensis [25],[84].
1.2.2 Tình trạng bảo tồn
Sách đỏ Việt Nam: EN [1]; Nghị định 32/2006/NĐ-CP: Nhóm IB [7]. Sách đỏ
thế giới: VU [82]; CITES: Phụ lục I [80].
1.2.3 Đặc điểm hình thái
Đặc điểm dễ nhận biết bò tót nhất là có một khối u trên sống lng và con đực
trởng thành có đầu to lớn. Con đực trởng thành có lông màu nâu đen, con cái có
lông màu đỏ [75]. Con mới sinh có lông màu vàng nhạt. Con già có lông màu đen
nhánh. Cổ, lng và hai bên hông của con trởng thành có lông màu nâu đen bóng,
ngắn. Phần phía dới bụng lông hơi vàng nhạt. Bốn chân có lông màu trắng từ bàn
chân đến khuỷu chân [69]. Mặt nhìn từ một bên có hình hơi lõm, dẹp, trên trán có 2
sừng nhô cao. Sừng dày, to khỏe, uốn cong hình bán nguyệt, vàng xám ở gốc, ngà
đen ở mút. Vùng trán có màu trắng và màu đen ở đỉnh. Mắt có màu nâu nhng sáng,
khi có đèn phản chiếu ban đêm, chúng có màu xanh [75]. Yếm là một miếng da nhỏ,
treo thõng xuống ở dới cổ họng, kéo dài đến giữa chân trớc có màu nâu xám hoặc
8
màu đen ở viền yếm [65]. Bò tót là loài độc nhất tiết ra chất nhờn nh dầu, có mùi
đặc trng và có lẽ để phòng tránh côn trùng [84].
- Công thức răng [41],[100]:
Ghi chú: i: Răng cửa
c: Răng nanh
pm: Răng trớc hàm
m: Răng hàm
i
0
3
,c
0
1
, pm
3
3
,m
3
3
= 32
Bảng 1.1 thể hiện các số đo cơ bản của bò tót trởng thành:
Bảng 1.1 - Các số đo cơ bản của bò tót
STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Khối lợng
Chiều cao vai
Chiều dài thân
Chiều dài đuôi
Chiều dài tai
Chiều dài nhất hộp sọ
Rộng xơng gò má
Hàng xơng hàm
Chiều dài sừng
Các chỉ số Kích cỡ
700 - 1000 kg
1700 - 2200 mm
4040 - 4270 mm
990 - 1030 mm
318 - 330 mm
520 mm
234 mm
156 mm
630 - 840 mm
785 - 1015 mm
390 - 520 mm
535 - 840 mm
10. Chiều rộng nhất của sừng
11. Chu vi gốc sừng
12. Khoảng cách giữa 2 đỉnh sừng
Nguồn: Van Peenen P.D.F (1969)
1.3 Tổng quan các kết quả nghiên cứu về bò tót trên thế giới và ở Việt Nam
1.3.1 Các nghiên cứu về bò tót trên thế giới
Các công trình nghiên cứu về các loài trâu bò hoang dã trên thế giới đã đợc
một số tác giả nghiên cứu từ đầu thế kỷ XIX, nhng từ những năm 1980 đến nay mới
có nhiều công trình nghiên cứu về các loài trâu bò hoang dã nói chung và là loài bò
tót nói riêng với nhiều kết quả phong phú. Các báo cáo nghiên cứu đã công bố, tập
trung nhiều ở các quốc gia có bò tót phân bố nh Căm-pu-chia, Lào, Thái Lan, ấn
Độ, Nê-pal, Bu-tan, Băng-la-đét, Miến Điện, Trung Quốc và Ma-lay-xi-a [84]. một
số công trình nghiên cứu về sinh học và sinh thái học bò tót tiêu biểu nh:
9
- nghiên cứu của Wharton (1957) về bò xám (Bos sauveli) và các loài bò
hoang dã (Bovinae) ở vùng Đông và Đông Bắc Căm-pu-chi-a. Tác giả đã đa ra một
số thông tin về quần thể, sự phân bố và các đặc điểm sinh thái của loài bò xám và
các loài bò hoang dã. Tác giả nhận định bò tót, bò xám và các loài bò hoang dã khác
không có sự xung đột trong cùng khu vực. Sinh cảnh a thích của bò tót là rừng tha
và trảng cỏ. Tuy nhiên các kết quả nghiên cứu chủ yếu là các thông tin và nhận định
về các đặc điểm sinh thái của bò xám [101].
- nghiên cứu của Conry (1981) ở Lepar Valley, miền trung Pa Hang, bán đảo
Ma-lay-xi-a từ năm 1977 đến 1979. Tác giả sử dụng các thiết bị vô tuyến thu phát
sóng ngắn (FM) và máy bay cánh bằng cơ nhỏ (Cessna) để theo dõi từ xa của 3 cá
thể bò tót. Đây là một trong những nghiên cứu sớm nhất về bò tót trong khu vực, có
phơng pháp nghiên cứu hiện đại. báo cáo cung cấp đợc một số thông tin bớc đầu
về số lợng cá thể có 62 cá thể với 7 đàn. Số lợng cá thể biến động từ 1 - 15, trung
bình là 5. Khoảng cách di chuyển trung bình của 3 cá thể bò tót là 20,8 km. bò tót
đẻ quanh năm. Bò tót sống trong các dạng sinh cảnh rừng thứ sinh, rừng hỗn giao và
trảng cỏ. Thức ăn của bò tót đã thống kê đợc 87 loài. Tuy nhiên nghiên cứu cũng
chỉ cung cấp đợc một số thông tin bớc đầu về các đặc điểm sinh thái của quần thể
bò tót ở Pa Hang nh vùng sống, di chuyển, thức ăn, dựa trên kết quả nghiên cứu của
3 cá thể bò tót [68], tính đại diện cha cao.
- nghiên cứu của Prayurasiddhi (1997) ở khu bảo tồn Huai Kha Kaeng, Thái
Lan. Tác giả sử dụng máy thu phát sóng ngắn (FM) và máy bay lên thẳng (Bell-
UH1) để theo dõi và so sánh sự khác biệt về phân bố và sự lựa chọn vùng sống của
bò tót (Bos gaurus) và bò rừng (Bos javanicus). Tác giả ớc lợng quần thể bò tót ở
khu vực nghiên cứu là 300 - 350 cá thể. Vùng sống của bò tót lớn hơn vùng sống của
bò rừng. Vùng sống a thích của bò tót là rừng bán thờng xanh có độ cao từ 200 -
600 m ASL. Thức ăn của bò tót đã thống kê đợc 232 loài. Đây là công trình nghiên
cứu có trang thiết bị hiện đại nh máy thu phát sóng và máy bay lên thẳng. Do vậy
các kết quả nghiên cứu có độ tin cậy cao. Tuy nhiên các nghiên cứu tập trung vào sự
chọn lựa vùng sống của hai loài bò tót và bò rừng. Các nghiên cứu về sinh thái chủ
10
yếu thông tin về thức ăn của 4 cá thể bò tót. Địa điểm nghiên cứu trong phạm vi của
một khu bảo tồn, không có các thông tin về sinh học, đặc điểm sinh cảnh của bò tót
[94].
Bên cạnh những nghiên cứu về sinh học và sinh thái của bò tót tiêu biểu nh
trên, còn có nghiên cứu về đánh giá và phân bố của bò tót cũng đợc thực hiện ở một
số khu vực nh:
- nghiên cứu của Heinen và Srikosamatara (1995) đánh giá về hiện trạng và đề
xuất bảo tồn quần thể trâu bò hoang dã ở Đông Nam á, trong đó có đánh giá về hiện
trạng và phân bố của quần thể bò tót [78].
- nghiên cứu của Duckworth và Hedges (1998) về phân bố các loài thú lớn
nh bò tót, bò rừng, trâu rừng, voi và hổ ở khu vực Đông Dơng và Nam Trung
Quốc, trong đó tác giả đề cập đến và đề xuất bảo tồn loài bò tót [73].
- nghiên cứu của Pasha, Areendran, Sankar và Qureshi (2000) về hiện trạng
quần thể, sự phân bố và đề xuất các giải pháp bảo tồn bò tót. Trong đó các tác giả đã
cài đặt 3 thiết bị vô tuyến theo dõi từ xa cho 3 cá thể (2 con đực, 1 con cái) để theo
dõi về sự di chuyển, kích thớc vùng sống, kích thớc quần thể và cấu trúc đàn quần
thể bò tót ở Pench Tiger Reserve, thuộc miền trung cao nguyên ấn Độ [93].
- nghiên cứu của Men Soriyun (2001) về hiện trạng phân bố và sinh thái quần
thể bò tót, là những nghiên cứu ban đầu ở Căm-pu-chia, nơi có quần thể bò tót rất
gần gũi với Việt Nam [89].
- nghiên cứu của Robert Steinmetz (2004) về độ phong phú, sử dụng sinh cảnh
và đánh giá bảo tồn của hai loài bò tót (Bos gaurus) và bò rừng (Bos javanicus) ở
khu bảo vệ Xe Pian (Lào) của các cuộc khảo sát thực hiện từ năm 1996 đến 1998
[95].
- nghiên cứu của Mohan Pai (2008) về phân bố và một số đặc điểm sinh thái,
tập tính và bảo tồn quần thể bò tót ở vùng Western Ghats, cao nguyên miền trung ấn
Độ. Đây là vùng có số lợng cá thể bò tót lớn nhất ở ấn Độ [91].
11
- nghiên cứu về phân loại học của Lekagul và McNeelley (1977) đã đa ra
nhiều thông tin cơ bản về sinh học, sinh thái học cho nhiều loài thú ở Thái Lan,
trong đó có loài bò tót. Các thông tin về bò tót tuy có đề cập, nhng chủ yếu là mô tả
về các đặc điểm hình thái, trọng lợng, sinh sản, phân bố của bò tót ở Thái Lan [87].
- nghiên cứu điều tra các mức độ buôn bán các sản phẩm của các loài ĐVHD
trái phép ở Căm-pu-chia của Martin và Phipps (1996), trong đó có loài bò tót và tác
giả đề xuất một số giải pháp bảo tồn loài bò tót [88].
Các báo cáo trên mô tả rất phong phú về các kết quả điều tra, nghiên cứu về số
lợng và vùng phân bố, xác định các mối đe dọa, đề xuất việc quản lý và bảo tồn
quần thể bò tót. sinh cảnh của bò tót tuy đã đợc một số tác giả đã đề cập, nhng
cha có đợc những dẫn liệu về các yếu tố tạo nên sinh cảnh, đặc điểm các sinh
cảnh của loài bò tót để làm cơ sở cho công tác bảo tồn.
1.3.2 Khái quát các giai đoạn lịch sử nghiên cứu về bò tót ở Việt Nam
Công tác nghiên cứu về các loài thú móng guốc nói chung và loài bò tót nói
riêng ở Việt Nam đợc chia làm 3 giai đoạn [34]:
- Giai đoạn trớc năm 1954
Trớc thế kỷ XVIII, việc nghiên cứu thú hoang dã ở Việt Nam còn rất ít. Đến
đầu thế kỷ XIX, các nhà nghiên cứu, nhà thám hiểm ngời nớc ngoài nh Anh,
Pháp, Hoa Kỳ bắt đầu đến Việt Nam đi du lịch, săn bắn và thu thập mẫu cho nhà bảo
tàng ở Paris (Pháp), Luân đôn (Anh). Các kết quả điều tra chủ yếu liệt kê, mô tả các
mẫu vật, kiểm kê các loài thú ở Đông Dơng, rất ít thông tin về loài bò tót ở giai
đoạn này. Việc mô tả nguồn gốc các mẫu vật chỉ mô tả theo các địa danh của vùng
nh Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, không mô tả chi tiết theo tên địa phơng, do vậy
cũng khó xác định các vùng phân bố của bò tót.
- Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng, công tác điều tra tài nguyên, trong đó có nguồn tài nguyên sinh vật cần phải
tiến hành để nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế đất nớc và hoàn toàn do
các cán bộ Việt Nam đảm nhận. Các kết quả nghiên cứu về thú nói chung còn lẻ tẻ
12
do một số trờng đại học và viện nghiên cứu thực hiện. Các công trình nghiên cứu có
liên quan đến bò tót rất ít.
ở miền Nam, do điều kiện chiến tranh, công tác nghiên cứu không đợc thực
hiện rộng rãi. Một số công trình nghiên cứu của Vơng Đình Sâm, giáo s trờng
Nông Lâm súc Sài gòn để phục vụ giảng dạy. Công trình của Van Peenen (1969)
nghiên cứu khu hệ thú từ Quảng Trị trở vào Nam, đề cập đến thông tin về loài bò tót
phân bố ở Tây Nguyên và các số đo mẫu vật [100].
- Giai đoạn từ 1975 đến nay
Giai đoạn đất nớc hoàn toàn giải phóng, đây là thời kỳ thuận lợi nhất để
nghiên cứu ĐVHD. Địa bàn nghiên cứu đợc mở rộng trên toàn quốc, đặc biệt là các
tỉnh phía Nam. Lực lợng tham gia nghiên cứu cũng đợc phát triển mạnh cả về số
lợng và chất lợng nghiên cứu, đặc biệt với sự giúp đỡ của các nhà khoa học Liên
Xô và từ nhiều nớc khác trên thế giới. Nhiều công trình nghiên cứu cấp Nhà nớc
đợc tổ chức liên ngành, với nhiều cơ quan tham gia và đã đem lại nhiều kết quả
quan trọng phục vụ cho sự nghiệp xây dựng các khu bảo tồn và vờn quốc gia ở Việt
Nam, bảo vệ các nguồn gen quý hiếm. Với chính sách đổi mới và mở cửa, sự hợp tác
mở rộng sang các nớc không phải xã hội chủ nghĩa; một số tổ chức khoa học chính
phủ và phi chính phủ đã mở văn phòng đại diện và đã có những đóng góp tích cực
vào công tác điều tra ĐVHD ở nớc ta.
Kết quả nghiên cứu về thú trong giai đoạn này rất to lớn với hàng ngàn công
trình đợc công bố trong nớc và trên thế giới. Các công trình chính trong thời gian
này của Đào Văn Tiến (1985); Đặng Huy Huỳnh và cs (1981) đã đa ra một số
thông tin về phân bố của bò tót ở một số địa phơng miền Bắc nh Lai Châu, Thanh
Hóa và Nghệ An [30],[48]. Sách Sinh học và sinh thái của các loài thú móng guốc ở
Việt Nam của Đặng Huy Huỳnh (1986) đợc xem là tài liệu sớm nhất và tơng đối
đầy đủ về sinh học và sinh thái của 19 loài thú móng guốc của Việt Nam thuộc 7 họ,
2 bộ, trong đó có loài bò tót [32].
Một số công trình nghiên cứu đề cập đến thông tin về bò tót ở Tây Nguyên của
Đặng Huy Huỳnh, Bùi Kính, Đặng Ngọc Cần (1981), Trần Hồng Việt (1986); Lê
Xuân Cảnh và nnk (1997) là những t liệu quý góp phần mô tả về các đặc điểm phân
13
bố, sinh học, sinh thái của loài bò tót [3],[31],[51]. Các danh lục thú hoang dã Việt
Nam của các tác giả Đặng Huy Huỳnh và nnk (1994), Lê Vũ Khôi (2000) và gần
đây của tác giả Đặng Ngọc Cần và nnk (2008) cũng góp phần mô tả vùng phân bố và
hiện trạng bảo tồn bò tót trong toàn quốc [4],[33],[37]. Ngoài ra các công trình của
Nguyễn Hải Hà và Jamse Hardcastle (2005), đặc biệt của Nguyễn Mạnh Hà (2008)
là những tài liệu cung cấp nhiều thông tin cập nhật về phân bố, hiện trạng bảo tồn
các quần bò tót hiện nay ở Việt Nam [24],[25].
Nhìn chung, các công trình nói trên chủ yếu là các thông tin kết quả điều tra về
phân bố, hiện trạng, những nguy cơ đe dọa đến các đàn và quần thể. Các tài liệu
chuyên khảo về bò tót ở Việt Nam còn rất hạn chế và đặc biệt cha có công trình
nào nghiên cứu sâu đặc điểm các sinh cảnh của quần thể bò tót.
Lịch sử nghiên cứu bò tót ở VQG Cát Tiên
Đối với VQG Cát Tiên, công tác nghiên cứu khoa học nói chung và ĐVHD nói
riêng đợc quan tâm từ năm 1998 đến nay. Giai đoạn này đợc đánh dấu bằng sự
khởi động của Dự án bảo tồn VQG Cát Tiên do Chính phủ Hà Lan và Chính phủ
Việt Nam đồng tài trợ thông qua Tổ chức WWF Việt Nam (1998 - 2004). Công tác
điều tra nghiên cứu động vật nói chung và nghiên cứu thú nói riêng có nhiều bớc
phát triển tốt. Ngoài ra, có các công trình nghiên cứu khoa học của dự án 661 hỗ trợ
cho VQG Cát Tiên nh xây dựng danh lục động thực vật rừng (2000, 2001), xây
dựng cơ sở dữ liệu danh lục động, thực vật rừng (2000). Bên cạnh sự đầu t, hỗ trợ
của Nhà Nớc, dự án bảo tồn VQG Cát Tiên đã đầu t nhiều mặt nhằm nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của VQG Cát Tiên, thông qua các
chơng trình hợp tác đào tạo, nghiên cứu với các cơ quan, các nhà khoa học, chuyên
gia trong và ngoài nớc. Nội dung nghiên cứu trong thời gian này chủ yếu tập trung
vào:
- Điều tra thống kê, đánh giá giá trị khu hệ và tài nguyên ĐDSH của VQG Cát
Tiên phục vụ quy hoạch và bảo tồn;
- Nghiên cứu, giám sát một số loài quý hiếm, trong đó có bò tót (Bos gaurus
H.Smith, 1827) và xây dựng kế hoạch quản lý, bảo tồn bền vững.
14
Dự án thu hút nhiều cơ quan khoa học tham gia nghiên cứu bao gồm các viện
nghiên cứu, các trờng đại học trong và ngoài nớc. Nhiều chuyên gia nớc ngoài,
các tổ chức quốc tế cũng tham gia mạnh mẽ vào công tác nghiên cứu bảo tồn ĐDSH
của VQG Cát Tiên nh IUCN, WWF, FFI, Birdlife International, Trung tâm Nhiệt
đới Việt - Nga, IRF, USFWS, MIKE,
Một số ấn phẩm quan trọng đã đợc xuất bản, nh Sổ tay ngoại nghiệp nhận
diện các loài thú của vờn quốc gia Cát Tiên của Phạm Nhật, Nguyễn Xuân Đặng
và Gert Polet (2001) mô tả đặc điểm nhận dạng, phân bố, đặc điểm sinh học, sinh
thái một số loài ĐVHD ở VQG Cát Tiên, trong có loài bò tót [42]. Các báo cáo của
Ben Hayes (2004), David Murphy (2004) ớc đoán số lợng cá thể bò tót xuất hiện ở
một số khu vực trong các lần các tác giả khảo sát ở VQG Cát Tiên [63],[70],
[71],[72],[96]. Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (2001) xác định họ Bovidae ở
VQG Cát Tiên có 4 loài, bò tót (Bos gaurus), bò rừng (Bos javanicus), bò xám (Bos
sauveli), trâu rừng (Bubalus bubalis), sơn dơng (Nemorhaedus sumatraensis) [54].
VQG Cát Tiên đã nhiều lần quay phim, chụp ảnh đợc ảnh bò tót ở VQG Cát
Tiên. Một kiểu ảnh chụp đợc một đàn khoảng 25 cá thể bò tót đang ăn gần trạm
Bàu Sấu (2001). một đoạn phim khoảng 15 phút với 12 cá thể bò tót đang băng
ngang đờng rừng ở khu vực Đắc Lua (2003). Nhiều ảnh bò tót khác cũng đã đợc
ghi nhận bằng máy bẫy ảnh (trapping camera). Năm 2001 trạm kiểm lâm Bàu Sấu
thu đợc 1 hộp sọ đợc các chuyên gia xác định là hộp sọ của loài bò rừng khoảng 1
năm tuổi, có hình ảnh chụp trong báo cáo [71]. Hiện nay bộ xơng đã bị thất lạc.
Vấn đề này đã và đang gây nhiều nghi vấn cho các nhà khoa học, loài bò rừng có
còn tồn tại hay không ở VQG Cát Tiên.
Nhìn chung, các báo cáo chủ yếu phục vụ việc xây dựng danh lục, mô tả số
đàn và số lợng cá thể ở một số vùng c trú, đe dọa đối với loài bò tót, nhng cha
có nghiên cứu chi tiết về sinh cảnh của quần thể bò tót ở VQG Cát Tiên.
Dự án bảo tồn bò hoang dã ở Việt Nam (2006 - 2010) đợc Chính Phủ Pháp
thông qua Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và Quỹ Môi trờng toàn cầu của Pháp
(FFEM) đã tài trợ cho Việt Nam nhằm bảo tồn nguồn gen các loài bò hoang dã với
mục tiêu duy trì nguồn gen để cải tạo đàn bò nuôi [59]. Trong khuôn khổ của Dự án

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét