Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Hoạt động XK hàng thủ công mỹ nghệ của Cty TNHH Trần Gia

Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng cũng nh thị trờng tài chính cha phát triển,
lãi suất đợc sử dụng làm một công cụ trực tiếp để tác động vào mục tiêu trung
gian và qua đó tới mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Ngân hàng TW sử
dụng loại công cụ này dới hình thức ấn định trực tiếp lãi suất kinh doanh cho
các ngân hàng hoạc qui định khung lãi suất tiền gửi lãi suất tiền vay hoặc
trần suất tiền vay qua đó khống chế lãi suất cho vay của các ngân hàng theo h-
ớng chặt hoặc nới lỏng tiền tệ.
Trong điều kiện thị trờng tài chính phát triển, Ngân hàng TW sử dụng công cụ
lãi suất gián tiếp chẳng hạn nh lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay cầm cố để
tác động gián tiếp tói lãi suất thị trờng. Lãi suất thị trờng thay đổi sẽ tác động
tới các biến số kinh tế vĩ mô. Ngàynay theo xu hớng tự do hoá tài chính, cơ chế
điều tiết nền kinh tế bằng công cụ lãi suất ngày càng trở nên phổ biến trên thế
giới.
Nh vậy trong nền kinh tế lãi suất là công cụ kinh tế khá quan trọng làm sao
để lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nớc trên thế giới trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế là vấn đề đợc đặt ra và cần đợc giải quyết.
2. Các nhân tố ảnh h ởng tới lãi suất, n guyên tắc và ph ơng pháp xác định
lãi suất.
2.1Các nhân tố ảnh h ởng tới lãi suất
Trong các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nhà nớc đóng vai trò trung
tâm hầu hết tất cả các hoạt đông kinh tế xã hội. Trong các nớc này cũng
không có thị trờng tài chính và tài chính kiềm chế là mô hình quản lý tài chính
phổ biến. Vì lẽ đó, lãi suất trong các nớc đó đều do nhà nớc qui định, thậm chí
một số nớc còn qui định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất
cho vay ngân hàng. Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện nh vậy phần
lớn phụ thuộc và ý chí của chính phủ và không thể dự đoán hay xác lập bất cứ
quy luật vận động nào.
Trái lại trong nền kinh tế thị trờng, nhà nớc chỉ đóng vai trò là ngời điều tiết
vĩ mô, thị trờng tài chính và các ngân hàng cũng nh các tổ chức tài chính trung
gian rất phát triển. Hơn nữa đã các nơc này lại theo đuổi tài chính tự do hoá và
cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trờng. Lãi suất vì vậy luôn biến động phụ
5
thuộc rất nhiều vao các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng nh nhiều nhân tố khác. Sau
đây chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số nhân tố cơ bản và quan trọng nhất:
2.1.1 ả nh h ởng của cung cầu của quỹ cho vay.
Lãi suất cả của cho vay vì vậy bất kỳ sự thay đổi của cung và cầu hoặc cả
cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất
trên thị trờng, tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào
các quy định của chính phủ và ngân hàng TW, song đa số các nớc có nền kinh
tế thị trờng đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Từ điều này cho
thấy chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trờng vốn để thay đổi lãi
suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lợc trong từng thời kỳ:
chẳng hạn nh thay đổi cơ cấu vốn đầu t, tập trung vốn đầu t cho các dự án trọng
điểm mặt khác, muốn duy trì sự ổn của lãi suất thì sự ổn định của thị trờng vốn
phải đợc đảm bảo vững chắc
2.1.2 ả nh h ởng của lạm phát kỳ vọng.
Khi mức lạm phát đợc dự đoán sẽ tăng lên trong một thòi kỳ nào đó, lãi
suất sẽ có xu hớng tăng. Điều này có thể giải thích bằng cả hai hớng tiếp cận:
thứ nhất ,xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực va lãi suất danh nghĩa cho
thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng ,sẽ danh phần tiết
kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài
chính khác (non financial assets ) nh vàng, ngoại tệ mạnh, hoặc đầu t vốn ra
nớc ngoài nếu có thể. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp
lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng nh trên thị trờng. Từ mối quan hệ này
cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với
việc ổn định lãi suet, sự ổn định và tăng trởng nền kinh tế
2.1.3 ả nh h ởng của bội chi ngân sách
Một cách đơn giản nhất, bội chi ngân hàng TW và địa phơng trực tiếp
làm cho cầu của quỹ cho vay tăng lãi suất. Sau nữa bội chi ngân hàng sẽ tác
động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực
tăng lãi suất. Trên một gốc độ khác thông thờng khi bội chi ngân sách tăng
chính phủ thờng gia tăng việc phát hành trái phiếu. Lợng cung trái phiếu trên thị
trờng tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hớng giảm, lãi suất thị trờng vì vậy
6
mà tăng lên. Hơn nữa ,tài sản có của các ngân hàng thơng mại cũng gia tăng ở
khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vợt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ
tăng.
2.1.4 Những thay đổi về Thuế
Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất
giống nh khi thuế tác động đến giá cả hàng hoá. Nếu các hình thức này tăng lên
cũng có nghĩa điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân, tổ chức cá
nhân và tổ choc cung cấp dịch vụ tín dụng hay những ngời tham gia kinh doanh
chứng khoán. Thông thờng ai cũng có quan tâm đến thu nhập thực tế hay lợi
nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức thuận
lợi thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của
thiếu. Điều quan trọng đợc rút ra từ mối quan hệ này là việc xác lập và điều
chỉnh đối với chính sách thuế, nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn của
mổi thay đổi nói trên của thuế.
2.1.5 Những thay đổi trong đời sống xã hội
Ngoài những yếu tố đợc trình bày trên đây, sự thay đổi của lãi suất còn
chịu ảnh hởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác, Sự phát triển của
thị trờng tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú là một ví dụ.
Các công cụ này khác nhau không chỉ ở thời gian phơng pháp tính và trả lãi,
khả năng tiêu thụ mà cả về độ co dãn của giá cả theo lợng cầu của chúng.
Chính vì vậy mà những thay đổi trong cơ cấu chứng khoán; sự xuất hiện các
chứng khoán mới, cũng nh phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu của thị tr-
ờng sơ cấp cũng sẽ tác động thay đổi lãi suất trên thị trờng thứ cấp. Mức độ phát
triển của các thể chế tài chính trung gian và gắn liền theo đó là sự cạnh tranh
trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức này là các ví dụ khác. Hiệu
suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu t cận biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ
khác nhau do những thay đổi trong công nghiệp và sự phát triển mang tính chu
kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi lãi suất. Thêm nữa tình hình
về kinh tế, chính trị cũng nh những biến động tài chính quốc tế nh các khủng
hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới; các luồng vốn dầu t ra,vào các đối với các
nớc ,đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi của lãi suất của các nớc khác. Tất cả
7
các vấn đề này gợi ý cho tất cả những nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính
sách lãi suất phải có những sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trớc khi
đa ra bất kỳ kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất.
Nh vậy trong nền kinh tế lãi suất là công cụ kinh tế khá quan trọng làm
sao để lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nớc trên thế giới trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề đợc đặt ra và cần đợc giải quyết.
2.2 Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất.
Lãi suất tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Lãi suất phải đồng thời thực hiện đợc 2 chức năng kích thích,
điều tiết hoạt động kinh tế phát triển và là chính sách kinh tế có hiệu quả.
Do lãi suất có ảnh hởng đến tất cả các quyết định liên quan đến tiền trong
xã hội nên việc xác định một mức lãi suất hợp lí là rất quan trọng. Lãi suất có
khả năng điều tiết một cách tự nhiên lợng vốn lu thông từ nơi thừa đến nơi
thiếu, từ ngời có vốn sang ngời cần vốn để đa vốn vào sử dụng trong các dự án
đầu t sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ
hơn mức hợp lí sẽ khiến ngời vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn
dẫn đến đầu t không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân
ngời đi vay lẫn ngời cho vay và hơn nữa, ảnh hởng đến sự tăng trởng kinh tế.
Ngợc lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử
dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích ngời cho vay, làm cho vốn
trở nên d thừa, ứ đọng, không đợc đầu t vào sản xuất kinh doanh, không sinh
lãi, lúc đó đồng vốn trở thành vốn chết không còn tác dụng gì nữa. Vì vậy,
trớc khi xác định mức lãi suất phải tính đến nguyên tắc này đầu tiên.
Nguyên tắc 2: Bảo tồn giá trị của vốn, bù đắp đợc rủi ro, có tích luỹ cho ngời
sở hữu vốn và ngời sử dụng vốn.
Khi đem vốn vào sử dụng, sau một thời gian nhất định, ngời sử dụng vốn
cũng nh ngời cho vay vốn đều hi vọng vốn ban đầu sẽ tạo ra một lợng tiền lớn
hơn tức là có sinh lãi đủ để trang trải các chi phí và để lại một phần lợi nhuận.
Đây là lẽ đơng nhiên. Song trên thực tế không phải đầu t nào cũng đem lại kết
quả tốt đẹp, sẽ có những lúc bị lỗ, thậm chí mất cả vốn ban đầu. Do đó, lãi suất
8
phải đảm bảo nguyên tắc 2 để ngời cho vay và ngời đi vay không bị thiệt thòi
dù cho việc sử dụng vốn có lúc lãi có lúc lỗ.
Nguyên tắc 3: Lãi suất phải đợc phân định theo thị trờng tiền tệ cấp 2.
Sở dĩ lãi suất phải phân định ra vì trên mỗi thị trờng, các yếu tố quyết định đến
mức lãi suất là khác nhau nh: chủ thể sở hữu và sử dụng vốn, chi phí huy động
vốn, mức độ rủi ro, uy tín của ngời vay.v.v Tuy nhiên, lãi suất trên thị trờng
cấp 2 có thể dựa vào lãi suất trên thị trờng cấp một để định ra mức lãi suất phù
hợp và lãi suất trên thị trờng cấp 1 có thể tăng hay giảm để tác động vào lãi suất
của thị trờng cấp 2. Tóm lại, lãi suất trên 2 thị trờng tiền tệ phải khác nhau nhng
có quan hệ hữu cơ và ràng buộc lẫn nhau. Thông thờng, lãi suất trên thị trờng
cấp một nhỏ hơn lãi suất trên thị trờng cấp 2 để đảm bảo cho các tổ chức tín
dụng sau khi đi vay trên thị trờng cấp 1 và cho vay trên thị trờng cấp 2 sẽ thu đ-
ợc một phần lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất trên hai thị trờng đó.
Nguyên tắc 4: Nguyên tắc này đợc hình thành trên cơ sở nguyên tắc 1 và 2,
trong đó:
o Tỉ lệ lạm phát < Lãi suất đi vay < Lãi suất cho vay < Tỉ suất lợi nhuận bình
quân của nền kinh tế (1)
o Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất trung và dài hạn (2)
Bất đẳng thức (1) cho thấy lãi suất phải đảm bảo có lợi cho cả ngời vay và ngời
đi vay đồng thời có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh, phát triển nền kinh
tế. Tỉ lệ lạm phát càng thấp và tỉ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế càng
cao thì càng tốt đối với cả dân c, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp.
Trong bất đẳng thức (2) lãi suất rõ ràng phải có tính bù đắp đợc rủi ro,
thời hạn sử dụng vốn càng dài, rủi ro càng cao thì lãi suất càng lớn. Vì nếu lãi
suất ngắn hạn lớn hơn lãi suất trung và dài hạn thì nó chỉ có lợi cho những ngời
giàu, lắm tiền gửi vào TCTD, sống dựa vào lãi cao, ngắn ngày, làm mất đi chức
năng cơ bản của các tổ chức tín dụng là đi vay để cho vay và có hại cho nền
kinh tế, xã hội và các doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên tắc 5: Đảm bảo sự biến thiên của lãi suất theo sát sự biến động của
thị trờng tiền tệ trong nớc và tiếp cận thị trờng quốc tế.
9
Lãi suất phản ánh qui luật cung- cầu vốn, do đó nó phải phụ thuộc vào sự
biến động của các luồng vốn trên thị trờng. Nếu cung vốn đang thừa mà lãi suất
cứ tăng lên thì những ngời cần vốn trên thị trờng sẽ không vay tiền nữa, làm cho
vốn không đợc lu thông, hạn chế sự tăng trởng của nền kinh tế.
Mặt khác, đối với mỗi quốc gia, lãi suất không chỉ phù hợp với thị trờng
trong nớc mà còn phải vận động ngày càng gần với lãi suất trên thị trờng quốc
tế. Có nh thế, đất nớc mới có thể hoà nhập với nền kinh tế thế giới và có quan
hệ bình đẳng với các quốc gia phát triển khác.
2.3 Ph ơng pháp xác định lãi suất.
2.3.1 Cơ sở hình thành lãi suất.
Việc tìm ra một cơ sở có thể hoàn toàn tin cậy là không thể có ngay đợc.
Các nớc có nền kinh tế thị trờng cạnh tranh hoàn hảo cũng đã và đang xây dựng
lãi suất theo phơng pháp phân tích thông tin của thị trờng, với kinh nghiệm và
sự uyên thâm trong nghề nghiệp để định lợng một lãi suất phù hợp. Trong phần
này, chúng ta xem xét các cơ sở mà hầu hết các nớc đang sử dụng cho việc hình
thành lãi suất.
Tỉ lệ lợi nhuận bình quân và tỉ lệ trợt giá là hai yếu tố quan trọng cấu
thành nên lãi suất đồng thời cũng là 2 cơ sở hình thành nên mức lãi suất. Lãi
suất tín dụng trong cơ chế thị trờng bị giới hạn bởi tỉ suất lợi nhuận bình quân
của nền kinh tế (giới hạn trên) và tỉ lệ lạm phát (giới hạn dới). Lãi suất chỉ có
thể vận động trong giới hạn đó và phải căn cứ vào 2 yếu tố này cùng với quy
luật cung - cầu vốn để tăng, giảm một cách hợp lí. Mặt khác, do nền kinh tế phụ
thuộc rất nhiều vào 2 cơ sở trên nên lãi suất đợc đặt ra, ngoài mục đích thu lợi
cho một cá nhân, một tổ chức, phải đảm bảo kích thích nền kinh tế tăng trởng.
Do đó, khi xác định lãi suất, ngời ta phải dựa trên 2 cơ sở cơ bản này.
Cơ sở thứ 3 là ớc định một tỉ lệ kích thích. Lãi suất cũng giống nh các
loại giá cả khác, chỉ cần thấp hoặc cao hơn một chút so với các tổ chức tín dụng
khác đã có thể thu đợc nhiều khách hàng hơn, cho vay nhiều hơn hoặc ngợc lại.
Nh vậy, trên cơ sở một tỉ lệ kích thích, lợi nhuận của TCTD có thể bị giảm đi
10
nếu tính trên giá trị từng giao dịch song với số lợng giao dịch tăng lên thì lợi
nhuận vẫn tăng mà TCTD lại tạo ra đợc lợi thế cạnh tranh lâu dài cho mình.
Cơ sở tiếp theo là chỉ tiêu hợp lí về tổng chi phí tín dụng bình quân. Dựa
trên chỉ tiêu này, ngời ta có thể xác định đợc nhiều chỉ tiêu khác nh doanh thu,
lợi nhuận, mức lơng, mức lãi suất.v.v Nếu tính toán tổng chi phí tín dụng bình
quân cao hơn nhu cầu thực tế của thị trờng sẽ dẫn đến thừa vốn, TCTD muốn
cho vay đợc phải giảm lãi suất cho vay. Điều này có thể dẫn đến hai hậu quả là
giảm lãi suất tiền gửi khiến khách hàng chuyển sang gửi tiền ở các TCTD khác
hoặc là giảm lợi nhuận đồng thời giảm tiền lơng của cán bộ công nhân viên.
Nếu chỉ tiêu trên thấp hơn nhu cầu thực tế thì tác động ngợc lại , TCTD phải
nâng cả lãi suất đi vay và lãi suất cho vay lên. Khi lãi suất cho vay tăng, các
doanh nghiệp sẽ vay ít hơn cho đầu t vào sản xuất kinh doanh khiến cho nền
kinh tế tăng trởng chậm lại. Vì vậy, xác định chỉ tiêu tổng chi phí tín dụng bình
quân hợp lí là rất cần thiết khi hình thành lãi suất giúp cho TCTD giữ đợc uy tín
với các doanh nghiệp vay vốn và thu hút đợc nhiều khách hàng gửi tiền.
Cơ sở cuối cùng là kinh nghiệm nghề nghiệp của các chuyên gia. Lãi suất
là một biến số đợc cấu thành từ rất nhiều biến số khác nhau mà trong đó chủ
yếu là những biến số mang tính khách quan. Do đó, muốn xác định đợc lãi suất
phải nắm chắc đợc các yếu tố cấu thành nó. Sự biến động của các yếu tố này rất
phức tạp, do đó cần phải xem xét, phân tích kĩ lỡng, đòi hỏi phải do các chuyên
gia hoạt động lâu năm trong nghề thực hiện.
2.3.2 Công thức tổng quát tính lãi suất.
Lãi suất đi vay của ngân hàng.
Lãi suất tiền gửi = < a% tỉ suất lợi nhuận bình quân + tỉ lệ lạm phát.
Trong đó: 0 = < a < 100.
Với a = 0% => Lãi suất tiền gửi không kì hạn = Tỉ lệ trợt giá.
Với tiền gửi có kì hạn thì kì hạn càng dài, a% càng lớn.
Lãi suất cho vay.
11
Lãi suất cho
vay nói chung
=
Lãi suất
tiền gửi
+
b%Tỉ suất lợi
nhuận bình quân
+
Phụ phí
tín dụng
+
Hệ số
rủi ro
Trong đó: b% phụ thuộc vào thời hạn vốn đợc sử dụng, thời hạn càng dài b%
càng lớn.
Hệ số rủi ro phụ thuộc vào nhiều yếu tố nh thời hạn sử dụng vốn, chủ thể vay
vốn, mục đích vay vốn, tính khả thi của dự án đầu t

II. Các vấn đề cơ bản về tự do hoá lãi suất
1. Thế nào là tự do hoá lãi suất ?
Tự do hoá lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hoá tài chính.
Thực chất của tự do hoá lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để
cho cung cầu vốn trên thị trờng xác định lãi suất cân bằng, tức là lãi suất đợc tự
do biến động để phản ứng theo các lực lợng cung-cầu vốn trên thị trờng, loại bỏ
những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nhà nớc
không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế mức lãi suất.
Các ngân hàng thơng mại đợc quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh
của mình để áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay còn Ngân hàng trung -
ơng chỉ can thiệp bằng các công cụ để điều chỉnh cho phù hợp chiến lợc và
mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu nhà nớc hoàn toàn không can thiệp
đến hệ thống lãi suất thị trờng thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất hoàn toàn (thả
nổi lãi suất hoàn toàn). Nếu nhà nớc có tham gia can thiệp gián tiếp theo một
định hớg xác định thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ thì đó là cơ chế
tự do hoá lãi suất có quản lý. Và khi đó NHTƯ tác động tới lãi suất chủ yếu dựa
trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp nh nghiệp vụ thị trờng mở, tái chiết
khấu, hợp đồng mua lại, và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên cơ sở cung cầu về
vốn, mức tiết kiệm, thu nhập và chi tiêu của cá nhân và những nhân tố khác. Tự
do hoá lãi suất đợc coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính, nó làm cho các luồng
12
tài chính lu thông thông suốt và là một xu thế để góp phần thúc đẩy kinh tế
tài chính Việt Nam hội nhập quốc tế.
Tự do hoá lãi suất nói riêng và tự do hoá tài chính nói chung có ý nghĩa quan
trọng đối với các quốc gia trong giai đoạn phát triển và chuẩn bị hội nhập vao
nền kinh tế thế giới trên phơng diện vĩ mô lẫn vi mô điều này đợc thể hiện nh
sau:
2. Vai trò của tự do hoá lãi suất trong nền kinh Tế
2.1 Xét trên ph ơng diện vĩ mô của nền kinh tế
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã có những thành công bớc đầu
trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau nhiều năm bị gián đoạn. Hiện
nay, chúng ta đã có mối quan hệ với WB, ADB, và là thành viên của ASEAN
từ năm 1997, gia nhập AFTA và đặc biệt mới trở thành một thành viên chính
thức của WTO. Bớc đầu hoà nhập nh vậy chúng ta đã có những thành công lớn,
kế tiếp chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thông lệ quốc
tế, trong đó có lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Nh vậy tự do hoá lãi suất chuyển dần sang việc thực hiện các công cụ gián tiếp
điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công cụ
tài chính trực tiếp. Với cơ chế này, sẽ trả lãi suất đúng vai trò là đòn bẩy kích
thích nền kinh tế phát triển, kích thích sự tăng trởng kinh tế.
2.2 Về ph ơng diện vi mô của nền kinh tế :
Tự do hoá lãi suất sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại,
các tổ chức tín dụng trong nớc và chi nhánh ngân hàng thơng mại nớc ngoài tại
Việt Nam, giúp các ngân hàng trong nớc có điều kiện phát triển đa dạng hoá
nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn. Viêc tự do hoá lãi suất cho phép
các ngân hàng thơng mại chủ động hơn trong việc kinh doanh tiền tệ, chủ động
định ra lãi suất là bao nhiêu để có thể thu hút đợc nguồn vố đáp ứng nhu cầu
của thị trờng, tạo môi trờng cạnh tranh. Đồng thời một khi các ngân hàng đợc
quyền ấn định lãi suất, họ sẽ đa ra phơng án sử dụng vốn tốt nhất và tránh đợc
13
rủi ro có thể gặp phải. Và chính sự cạnh tranh trong hoạt động của các ngân
hàng là nhân tố hình thành lãi suất thị trờng.
Đối với khách hàng của ngân hàng thơng mại đó là các doang nghiệp, các tầng
lớp dân c sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc điểm
hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời đợc quyền lựa chọn các ngân hàng
thơng mại, các tổ chức tín dụng để giao dịch hoạt động. Viêc cạnh tranh giữa
các ngân hàng thơng mại làm cho lãi suất tín dụng có xu hớng hạ thấp, điều này
sẽ kích thích các doanh ngiệp và các cá nhân tích cực triển khai nhiều dự án sản
xuất kinh doanh hơn. Từ đó sẽ tăng cầu về tín dụng, đây là yếu tố để thúc đẩy
tăng trởng kinh tế.
Ch ơng II
Tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua.
Quá trình tự do hoá lãi suất chính là quá trình điều hành cơ chế lãi suất qua các
thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Từ đầu thập kỷ 90 chính sách lãi suất đã dần
thay đổi từng bớc thích ứng với cơ chế lãi suất thị truờng đồng thời tăng cờng
hiệu lực của cơ chế giá trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Diễn biến của
chính sách lãi suất trong thời gian qua có thể chia thành các giai đoạn nh sau:
1. Tiến trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
1.1 Giai đoạn tr ớc tháng 3/1988 Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý
nền kinh tế theo ph ơng thức quản lý kế hoạch hoá tập trung
Đặc trng cơ bản của lãi suất ở thời kỳ nàyđó là áp dụng chính sách lãi suất bao
cấp khá nặng nề, lãi suất đợc xây dựng thoát ly lãi suất nền kinh tế thế giới:
+ Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
+ Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Dẫn đến lãi suất trong thời kỳ nay với tình trạng lãi giả và lỗ thật làm cho
ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất
thực là số âm. Vì vậy tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa. Do vậy đã
gây ra những hậu quả:
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét