Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014
Tài liệu LUẬN VĂN ẢNH HƯỞNG CỦA THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TP.HCM pdf
MỤC LỤC
Chương I. Giới thiệu 1
1.1. Mở đầu 1
1.2. Vấn đề nghiên cứu 4
1.3. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu 7
1.3.1. Mục tiêu 7
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu 8
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu 8
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu 9
1.5. Giả thiết nghiên cứu 9
1.6. Kết cấu của đề tài 9
Chương II. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước 10
2.1. Lý thuyết về thị trường chứng khoán 10
2.1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán 10
2.1.2. Thành phần tham gia thị trường chứng khoán 10
2.2. Vai trò của thông tin trên TTCK 12
2.3. Lý thuyết về thông tin bất cân xứng 13
2.3.1. Giới thiệu sơ lược về thông tin bất cân xứng 13
2.3.2. Các khái niệm về thông tin bất cân xứng 14
2.3.3. Hệ quả của thông tin bất cân xứng 15
2.3.4. Ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với nhà đầu tư 16
2.3.5. Giải pháp lý thuyết hạn chế thông tin bất cân xứng 17
2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm đo l
ường thông tin bất cân xứng 19
2.4.1. Mô hình xác định chi phí lựa chọn bất lợi 19
2.4.2. Hàm hồi qui và biến đo lường thông tin bất cân xứng 23
2.5. Mô hình nghiên cứu đề nghị 26
2.5.1. Lựa chọn mô hình đo lường chi phí lựa chọn bất lợi 26
2.5.2. Lựa chọn mô hình và biến đo lường thông tin bất cân xứng 27
2.6. Kết luận 31
Chương III. Hiện trạng thông tin trên thị trường chứng khoán 31
3.1. Sơ lược về thị trường chứng khoán 31
3.2. Thực trạng công bố thông tin của các công ty niêm yết 38
3.2.1. Thực trạng công bố thông tin theo qui định hiện hành 38
3.2.2. Thực trạng các nhân tố tác động đến tình trạng thông tin của thị trường 40
3.3. Kết luận 42
Chương IV. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu 43
4.1. Mô hình đo lường 43
4.1.1. Xác định chi phí lựa chọn bất lợi 43
4.1.2. Mô hình đo lường mức độ thông tin 44
4.2. Chọn mẫu và dữ liệu 45
4.2.1. Chọn mẫu 45
4.2.2. Dữ liệu 45
4.3. Kết quả thực nghiệm và giải thích kết quả 47
4.3.1. Thống kê mô tả 47
4.3.2. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm 50
4.4. Kết luận 53
Chương V. Kết luận và gợi ý chính sách 54
5.1. Kết luận vấn đề nghiên cứu 54
5.2. Gợi ý chính sách 55
5.3. Giới hạn của đề tài 58
5.3.1. Mô hình đo lường chi phí lựa chọn bất lợi 58
5.3.2. Số lượng công ty niêm yết 58
5.3.3. Biến đo lường 58
5.3.4. Kiểm soát biến nội sinh 59
5.3.5. Các lĩnh vực nghiên cứu tiếp tục 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
PHỤ LỤC 1 63
PHỤ LỤC 2 65
PHỤ LỤC 3 70
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1 : Tóm tắt mô hình thông tin bất cân xứng 19
Hình 2.2: Tóm tắt quy trình nghiên cứu 29
Hình 3.1a: Thực trạng VNIndex và Lệnh giao dịch từ
28/07/2000-25/06/2001 32
Hình 3.1b: Thực trạng VNIndex và Lệnh giao dịch từ
25/6/2001-23/10/2003 33
Hình 3.1c: Thực trạng VNIndex và Lệnh giao dịch từ
23/10/2003-25/04/2006 34
Hình 3.1d: Thực trạng VNIndex và Lệnh giao dịch từ 25/04/2006-13/03/2007 35
Hình 3.1e: Thực trạng VNIndex và Lệnh giao dịch từ 13/03/2007 đến nay 36
Hình 4.1a: Đồ thị và thống kê miêu tả biến DASC 67
Hình 4.1b: Đồ thị và thống kê miêu tả biến MB 67
Hình 4.1c: Đồ thị và thống kê miêu tả biến MVE 67
Hình 4.1d: Đồ thị và thống kê miêu tả biến VOL 68
Hình 4.1e: Đồ thị và thống kê miêu tả biến PRI 68
Hình 4.1f: Đồ thị và thống kê miêu tả biến VAR 68
Hình 4.1g: Đồ thị và thống kê miêu tả biến SIGR 69
Hình 4.1h: Đồ thị và thống kê miêu tả biến SIGVOL 69
Hình 4.2: Đồ thị biểu diễn phương sai và biến giải thích 78
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tóm tắt biến 29
Bảng 3a: Thực trạng các biến thông tin 65
Bảng 3b: Thống kê miêu tả các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ thông tin 40
Bảng 4.1a: Thành phần lựa chọn bất lợi của mỗi cổ phiếu 63
Bảng 4.1b: Thành phần lựa chọn bất lợi 47
Bảng 4.1c: Thành phần lựa ch
ọn bất lợi có 0<ASC<1 48
Bảng 4.2a: Chi phí lựa chọn bất lợi trên mỗi cổ phiếu 63
Bảng 4.2b: Chi phí lựa chọn bất lợi trên mỗi cổ phiếu 48
Bảng 4.2c: Bảng thống kê miêu tả biến thông tin 49
Bảng 4.3: Kết quả hồi qui tổng thể [4.1a] 71
Bảng 4.4: Kết quả hồi qui theo mô hình giới hạn [4.2a] 72
Bảng 4.5: Hệ số hồi qui từng phương trình 75
Bảng 4.6: Giá trị trung bình trị tuyệt đố
i của từng hệ số 75
Bảng 4.7:.Ma trận tương quan 76
Bảng 4.8: Kết quả hồi qui biến phụ thuộc sau khi lọai bỏ biến LNMB và LPRI - 77
Bảng 4.9: Kết quả hồi qui phần dư bình phương 78
Bảng 4.10: Kết quả hồi qui có trọng số 79
Bảng 4.11: Kết quả hồi qui phương sai có trọng số 80
1
Chương I. Giới thiệu
1.1. Mở đầu
Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động kể từ năm 2000, khi đó
thị trường chỉ được giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM, biểu
thị của thị trường là chỉ số giao dịch VNIndex. Khi Trung tâm mở cửa giao dịch
phiên đầu tiên thì chỉ có 2 cổ phiếu REE và SAM được niêm yết, mãi cho đến cuối
năm 2005 cũng chỉ có 41 công ty niêm yết. Chỉ số VNI ở
giai đọan này biến động
khá thất thường, có lúc cao trào chỉ số tăng lên gần 600 điểm, lúc nguội lạnh thì
VNIdex chỉ còn hơn 100 điểm. Bước sang năm 2006, đặc biệt là nữa cuối của năm
số lượng công ty niêm yết tăng lên nhanh chóng, đến cuối năm số công ty niêm yết
là 196 công ty. Đi cùng với sự gia tăng số lượng công ty niêm yết là chỉ số VNI
liên tục tăng từ mốc 600 đ
iểm giữa năm 2006 đã tăng lên gần 1000 điểm vào cuối
năm. Không dừng lại tại đó, sự kiện Việt Nam được gia nhập tổ chức kinh tế lớn
nhất thế (WTO) vào cuối năm 2006, thị trường đã thực sự bùng nỗ. Thị trường liên
tục tăng nóng bất chấp những lời cảnh báo của các chuyên gia và đỉnh điểm của nó
là chỉ số VNI tăng lên 1170 điểm vào ngày 13/03/2007.
Điểm đặc biệt ở giai đoạn trên là khi thị trường tăng, hầu hết mọi cổ phiếu
đều tăng giá, bất chấp cổ phiếu tốt hay không tốt và ngược lại khi có một biến động
nhỏ thì tất cả các cổ phiếu đều giảm. Hiện tượng tâm lý hay hành vi đầu tư theo
kiểu bắt chước còn gọi là hành vi bầy đàn
1
lại biểu hiện rõ như lúc này, đi kèm theo
đó là có những dấu hiệu bong bóng tài sản trên thị trường và chúng mang tính
không ổn định. Lường trước những tác hại xấu có thể xảy ra khi thị trường tăng
trưởng quá nóng, Chính phủ đã thực thi rất nhiều biện pháp nhằm hạn chế sự tăng
nóng này bằng rất nhiều hình thức, từ những lời cảnh báo của các chuyên gia,
những nhà quản lý ngành và đến các bi
ện pháp mang tính hành chính mệnh lệnh
như chỉ thị số 03 của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/06/2007. Theo đó,
các tổ chức tín dụng chỉ được phép cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán dưới
mức 3% của tổng dư nợ tín dụng. Mặc dù chỉ thị 03 chưa đến hạn áp dụng, nhưng
kể từ lúc ban hành chỉ thị đến ngày 27/12/2007, thị trường đã liên tục đi xuống,
1
Theo trang từ điển Wikipedia “Herd behaviour” : Hành vi bầy đàn là tình huống miêu tả phản ứng đồng
thời của một nhóm gồm những cá nhân mà không có bất kỳ sự hợp tác nào giữa các cá nhân.
2
lượng giao dịch cũng giảm hẳn. Kèm theo đó là thị trường OTC đã bị đóng băng,
giá cổ phiếu trên cả hai thị trường đều giảm rất lớn từ 30-50%.
Cho đến ngày 27/12/2007 đã có 249 công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Trong đó thị trường chứng khoán TP.HCM có 138 công ty (bao gồm các
công ty quản lý quỹ) và còn lại là các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán
Hà Nội. Với 249 công ty đang niêm yết, vốn hóa của thị
trường hiện nay khoảng
491 ngàn tỷ đồng, tương đương 30 tỷ USD (nguồn Vietstock), nếu so sánh mức
vốn hóa của thị trường hiện nay với các thị trường chứng khoán của các nước phát
triển thì thị trường Việt Nam chẳng đáng là bao. Tuy nhiên, với mức vốn hóa lên
đến khoảng 30 tỷ USD chiếm gần 43% GDP của cả nước thì nó quả thật không nhỏ
đối với Việt Nam.
Trải qua hơn 8 năm hình thành và phát tri
ển, nhìn chung thị trường đã có
những đóng góp rất tích cực. Đối với Chính phủ, tính đến ngày 18/02/2008 chỉ
riêng trên thị trường chứng khoán TP.HCM đã có hơn 55.85 nghìn tỷ đồng trái
phiếu được niêm yết, trong đó hầu hết đều là trái phiếu của các ngân hàng thương
mại nhà nước và kho bạc trung ương (Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM). Bên
cạnh đó Chính phủ cũng đã thu về hàng chục ngàn tỷ đồng từ vi
ệc cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước. Có thể nói thị trường chứng khoán hiện tại tuy không lớn,
nhưng cũng đã phát huy được vai trò là kênh huy động vốn tích cực của Chính phủ.
Ngoài ra, việc hình thành thị trường chứng khoán cũng đã làm cán cân lãi suất trên
thị trường tín dụng điều chỉnh ngày càng phù hợp hơn với tình hình phát triển kinh
tế đất nước.
Với các công ty, thị trường chứng khoán được xem là nơi huy độ
ng vốn hiệu
quả nhất, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay. Khi mà nền kinh tế luôn có tốc độ
tăng trưởng và phát triển cao thì nhu cầu về vốn dài hạn dành cho đầu tư và phát
triển rất lớn. Trong khi nguồn lực của các tổ chức tín dụng hiện tại hầu như không
đáp ứng kịp thì sự ra đời của thị trường chứng khoán như là một cứu cánh cho các
công ty trong vi
ệc đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Cùng với việc huy động vốn,
thông qua việc hợp tác với các đối tác chiến lược trong và ngoài nước, các công ty
niêm yết cũng đã tận dụng được kinh nghiệm quản lý và công nghệ sản xuất tiên
tiến từ các đối tác này. Mặc dù, trong thời gian vừa qua thị trường chưa phát huy
3
hết vai trò đánh giá, giám sát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty
niêm yết, nhưng nó cũng phần nào làm cho các công ty này ngày càng minh bạch
hơn, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn hơn và có khả năng đương đầu với các công
ty lớn bên ngoài.
Một trong những đóng góp quan trọng khác mà thị trường chứng khoán Việt
Nam cũng đã phát huy rất tốt. Đó là thị trường vừa huy động được vốn nhàn r
ỗi và
vừa tạo ra cơ hội đầu tư cho các cá nhân, tổ chức cả trong và ngoài nước. Tuy có
một số ngành nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nước nhà
chưa được công khai niêm yết hoặc số lượng niêm yết còn hạn chế như hàng không,
bưu chính, ngân hàng …, nhưng với 249 công ty được niêm yết trên cả hai thị
trường chứng khoán thì đây cũng là một thị trường có hàng hóa tương
đối đa dạng
và cũng là cơ hội đầu tư đa dạng cho các cá nhân, tổ chức cả trong và ngoài nước.
Bên cạnh những thuận lợi đã giúp cho thị trường có những đóng góp to lớn
như định hướng phát triển thị trường chứng khoán của Chính phủ đến năm 2020,
tốc độ phát triển kinh tế luôn duy trì ở mức cao, gia nhập các tổ chức kinh tế lớn
trong khu vực và trên thế gi
ới thì hiện nay thị trường vẫn còn nhiều khó khăn chưa
được khắc phục và những thách thức lớn có khả năng gặp phải trong thời gian tới.
Những khó khăn lớn trong thời gian gần đây phần nào đã làm cho thị trường
chậm phát phát triển và chưa phát huy được hết vai trò thực thụ là những vấn đề
như hệ thống luật pháp chưa bao quát, chính sách điều hành còn mang tính mệnh
lệ
nh – hành chính, chất lượng của người điều hành và tham gia thị trường còn yếu,
cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của thị trường còn hạn chế và đặc biệt là
mức độ thông tin minh bạch chưa cao thể hiện qua cơ sở dữ liệu hiện nay còn thiếu,
bị che dấu và độ chính xác chưa cao, từ đó làm cho thị trường chứng khoán Việt
Nam trong thời gian qua biến động khá lớn. Trong thời gian tới, nhu cầu định
hướng đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước Công nghiệp hóa - Hiện đại
hóa, vì vậy một trong những công cụ để định hướng trên trở thành hiện thực, đó là
phải có một thị trường chứng khoán phát triển cao, và thị trường này phải là phong
vũ biểu thực sự cho nền kinh tế Việt Nam. Thế nên, trong thời gian tới đây thị
trường phải nâng cấp cơ sở hạ tầng để có thể tiếp nhận nhiều công ty nữa hơn nữa.
Hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý và hơn thế nữa là thông tin thị trường, thông tin về
4
các công ty niêm yết phải ngày càng thông suốt và đó là cơ sở để điều hành minh
bạch và cạnh tranh, hướng tới phấn đấu cạnh tranh đối với các thị trường trong khu
vực và cả trên thế giới.
1.2. Vấn đề nghiên cứu
Ngoài những đóng góp quan trọng đã nêu, cho đến nay thị trường chứng
khoán Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải khắc phục về c
ơ sở hạ tầng,
hệ thống pháp lý điều chỉnh, cơ chế quản lý giám sát, các thành phần tham gia thị
trường, chênh lệch cung cầu, thông tin minh bạch, cạnh tranh bình đẳng trên thị
trường vv…
Cơ sở hạ tầng phục vụ thị trường tuy có chuyển biến và được nâng cấp đáng
kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường. Hiện nay khi
vào giờ cao điểm, nhà đầu tư rất khó truy cập vào những trang Web của các công ty
chứng khoán và Sở GDCK. Ngoài các sự cố do đường truyền, hệ thống phần mềm
của Sở cũng thường xuyên bị lỗi. Theo Báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam
đã thống kê, chỉ tính trong khoảng thời gian từ ngày 08/12/2006 đến 30/08/2007 đã
có 4 trường hợp các giao dịch tại sàn gặp sự cố, đó là sự cố khiến các nhà đầu tư
không thể theo dõi bảng giá chứng khoán, nên phải hủy khớp lệnh đợt 2 và 3
(08/12/2006); số liệu trên bảng giá chứng khoán bị sai lệch khi một mã chứng
khoán được cập nhật hai lần trên bảng giá (ngày 26/01/2007); hủy phiên giao dịch
thường lệ, chuyển sang giao dịch buổi chiều (02/02/2007); bảng báo giá tê liệt từ
8g30-9g15, giá trị giao dịch toàn thị trường giảm xuống 426.5 tỉ đồng (30/08/2007).
Như vậy,
định hướng phát triển thị trường thông qua việc giao dịch và đặt lệnh trực
tuyến sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tới.
Vấn đề tồn tại kế tiếp là khung pháp lý điều chỉnh chưa bao quát: Thị trường
ra đời kể từ tháng 7 năm 2000, nhưng cho đến năm 2003 mới có Nghị định 144 ban
hành ngày 28/11/2003 điều chỉnh tương đối bao quát lĩnh vực này. Tuy nhiên phạm
vi
điều chỉnh chỉ phù hợp với một thị trường nhỏ bé lúc bấy giờ mà thôi. Mãi cho
đến ngày 29/06/2006 luật chứng khoán mới ra đời, và tính từ ngày luật ra đời đến
nay chỉ hơn 1 năm đưa vào thực tế thì luật này hiện được xem là còn khá mới mẻ
các văn bản dưới luật hiện đang nằm trong giai đoạn hoàn thiện. Việc phổ cập kiến
5
thức chứng khoán nói chung và luật chứng khoán nói riêng còn rất hạn chế. Các cơ
sở đào tạo chính thức về kiến thức chứng khoán còn quá ít, nếu có chỉ là hình thức
ngắn hạn. Do vậy mà hiện nay có những lớp, người đầu tư muốn đi học phải đăng
ký trước hàng tháng. Đặc biệt, hiện chỉ có một cơ sở duy nhất được phép đào tạo
cấp chứng chỉ luật là Trung tâm nghiên cứu và đào tạo thuộc Ủy Ban chứng khoán.
Vì vậy mà đội ngũ làm việc trong các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
vẫn còn nhiều người chưa có chứng chỉ đào tạo.
Vấn đề tồn tại tiếp theo là tình trạng mất cân bằng giữa cung và cầu chứng
khoán: Vào những lúc thị trường phát triển nóng, đặc biệt là giai đoạn từ tháng
12/2006 đến tháng 03/2007, cầu lớn hơn cung khoảng 1.5 lần. Vào th
ời điểm này
cung nhỏ hơn cầu chủ yếu do mặt hàng cung còn quá nhỏ so với nhu cầu, hàng hóa
trên thị trường chưa phong phú. Nhằm thu hẹp khoảng cách cung cầu và hạn chế sự
tăng trưởng thái hóa, Chính phủ đã thúc đẩy các doanh nghiệp lớn của Nhà nước
tiến hành cổ phần hóa. Việc dự định sẽ có nhiều doanh nghiệp lớn IPO
2
đã tạo ra
tâm lý cung sẽ lớn hơn cầu, bên cạnh đó chỉ thị số 03 của Ngân hàng nhà nước về
việc hạn chế cho vay cầm cố chứng khoán dưới 3% tổng dư nợ đã làm cho giao
dịch thị trường giảm đáng kể, bình quân giao dịch một ngày lúc tăng trưởng nóng ở
thị trường TP.HCM là trên 1000 tỷ đồng, nhưng kể từ lúc thị trường đi xuống bình
quân giao dị
ch một ngày không vượt quá 500 tỷ đồng. Từ thực tế trên ta thấy lộ
trình cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty 90, 91 của Chính phủ đến
năm 2010 là khó khả thi. Bên cạnh, lộ trình cổ phần hóa không phù hợp đã làm cho
tình hình cung cầu của thị trường luôn mất cân bằng, thì tình hình cung cầu của thị
trường phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý và hành vi của người đầu tư.
Nếu phân chia nhà đầu tư trên thị trườ
ng chỉ có hai dạng đầu tư là đầu tư dài
hạn và đầu tư ngắn hạn, thì số lượng nhà đầu tư ngắn hạn hiện nay chiếm chủ yếu.
Đa số nhà đầu tư ngắn hạn chỉ thực hiện hành vi mua bán khi có sự chênh lệch giá.
Họ rất ít khi nghiên cứu kỹ tình hình hoạt động và tiềm năng phát triển của doanh
nghiệp. Động cơ mua bán thường theo xu hướng của thị trường và luôn đi ngược
lại so với nhà đầu tư dài hạn, giá cổ phiếu càng tăng thì càng mua, càng giảm thì
càng bán. Đây là dấu hiệu của tâm lý hay hành vi bầy đàn. Những nhà đầu tư ngắn
hạn này rất nhạy cảm với thông tin, hầu như các thông tin vừa qua đều ảnh hưởng
2
Là quá trình phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (Đào Lê Minh, 2002).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét