Nội dung :
* Thừa nhận tính đặc trưng của lĩnh vực dịch vụ thông tin Viễn thông và,
đặc biệt, vai trò kép của lĩnh vực này với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh
tế riêng biệt và một phương tiện vận tải thiết yếu với các hoạt động kinh tế khác.
Chi tiết hoá những quy định trong Hiệp định về các biện pháp có tác động đến
việc tiếp cận và sử dụng mạng lưới vận tải và dịch vụ viễn thông công cộng.
* Xây dựng các nguyên tắc đa biên liên quan đến tiếp cận thị trường nhằm
đảm bảo rằng các yêu cầu được quy định trong nước được:
+ Xây dựng các chuẩn mực khách quan và minh bạch, như là năng lực và
khả năng cung cấp dịch vụ.
+ Không nặng nề hơn mức cần thiết để đảm bảo chất lượng dịch vụ, do vậy
mới thúc đẩy được quá trình tự do hoá các dịch vụ kế toán một cách có hiệu quả.
* Sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế và làm như vậy sẽ khuyến khích sự hợp
tác với các tổ chức quốc tế có liên quan.
* Tiếp cận và sử dụng dịch vụ và hệ thống thông tin viễn thông công cộng
với những điều khoản và điều kiện hợp lý và không phân biệt đối xử.
* Các thành viên khuyến khích và hỗ trợ sự hợp tác kỹ thuật.
* Thừa nhận tầm quan trọng của các tiêu chuẩn quốc tế để có một tính
tương thích toàn cầu và tính phối hợp thao tác trong dịch vụ mạng thông tin viễn
thông.
3.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý trong quản lý viễn thông.
3.1.Xu hướng về chính sách cạnh tranh trong Viễn thông.
Tổng quan
Từ cuối nhũng năm 1980 đến cuối nhũng năm 1990, các nước châu á có tốc
độ phát triển kinh tế cao hơn các nước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đã tạo ra
một lượng cầu lớn đối với các dịch vụ Viễn thông, do đó các nước Châu á đã
thực hiện nới lỏng, phân cấp các qui định về phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đáp
ứng các nhu cầu tăng trưởng này.
5
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trong khu vực từ
tháng 7/1997 đã ảnh hưởng đến ngành Viễn thông Châu á. Tốc độ tăng trưởng
giảm xuống làm cho nhu cầu về các dịch vụ Viễn thông cũng giảm xuống. Phần
này dựa trên những thuật ngữ cơ bản như “ cạnh tranh “, “tư nhân hoá “ và “ cơ
sở hạ tầng viễn thông tiên tiến” để mô tả các xu hướng về môi trường viễn thông
ở Châu á.
Gần đây có nhiều thay đổi trong lĩnh vực Viễn thông. Các công nghệ mới
như là Internet và GMPCS đã được đưa vào thị trường do vậy cần có các chính
sách, quy định và các tổ chức chiu trách nhiệm trong vấn đề khai thác. Vấn đề tự
do hoá và bãi bỏ các quy định cũ đã được đưa ra đối với thị trường viễn thông
mới. Các vấn đề mới nảy sinh đối với các nước thành viên như là cam kết của họ
đối với WTO và đã mở rộng đến phạm vi quốc gia quan tâm về viễn thông. các
nước thành viên đã tự mình có những thay đổi về cơ cấu tổ chức để đáp ứng các
thách thức mới như là chia sẻ khai thác kinh doanh và những quy định về viễn
thông. Tác động trước mắt của Internet và thương mại điện tử đã thúc đẩy hơn
nữa những thay đổi cho cơ chế đang tồn tại về chính sách, quy định và thương
mại trong lĩnh vực viễn thông.
Thị trường thế giới về lĩnh vực viễn thông đang ngày càng mở rộng. Nó
không còn là vấn đề “ kéo cầu “ hay “đẩy cung “, cả hai điều này đang xảy ra.
Sự tác động lẫn nhau của hai yếu tố này khiến cho viễn thông trở thành một
trong những lĩnh vực có sự tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Nó
cũng khiến cho viễn thông trở thành một trong những ngành quan trọng nhất của
hoạt động cã hội, văn hoá và chính trị. Điều này đặt ra một vấn đề có liên quan
đến viễn cảnh về xã hội thông tin toàn cầu (GIS ). Viễn cảnh này đã là chủ đề
trenh luận trong giai đoạn 1995 – 1999, ban đầu là những nước công nghiệp tiên
tiến G7, sau đó là trong cộng đồng quốc tế. Ngày nay, những ý tưởng cơ bản ẩn
sau khái niệm GIS đang được chấp nhận một cách rộng rãi. Trong viễn cảnh này
mọi hình thức hoạt động văn hoá xã hội, chính trị sẽ ngày càng phụ thuộc vào
việc truy nhập những dịch vụ viễn thông và thông tin của cơ sở hạ tầng thông tin
6
toàn cầu (GII ). Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử trên Internet
là một ví dụ làm thế nào để GIS trở thành hiện thực. Thách thức cộng đồng quốc
tế đang phả đối mặt đó là phải tìm ra được những hướng đi để đảm bảo GIS
mang tính toàn cầu và rằng mọi người ở mọi nơi có thể chia sẻ những quyền lợi
của nó.
Việc truy nhập các dịch vụ mới sẽ đòi hÁi không chỉ đối vấn đề cân bằng
mà còn đòi hÁi đối với vấn đề thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng
thông tin.
Các vấn đề mới như là truy nhập quốc tế và tính cân bằng, thương mại quốc
tế và xuyên suốt các biên giới đối với thông tin và các chính sách thương mại
nội địa đang nổi lên để thực hiện viễn thông cho hầu hết các lĩnh vực không
kiểm soát được.
Tốc độ thay đổi trog lĩnh vực viễn thông là rất lớn và các ứng dụng của nó
đang trở nên rộng rãi hơn. Công nghệ, kinh doanh thương mại, môi trường và
các tổ chức quốc tế về viễn thông đang thách thức của xã hội trong lĩnh vực
quản lý. Các giải pháp lâu dài cho vấn đề truy nhập cho các khu vực vùng sâu
vùng xa đó là các công nghệ mới như Cellular, vệ tinh, cáp quang va DSL và
chúng đang tăng đáng kể trong toàn bộ thị trường. Dù sao vẫn có sự khác biệt
như độ thoả dụng của dịch vụ bên trong các nước và giữa các nước. Công nghệ
mới có khả năng làm tăng thêm hoặc làm giảm mất sự cân bằng giữa các nước.
3.2.Cạnh tranh và khuôn khổ pháp lý
3.2.1.Các nguyên nhân thúc đẩy cạnh tranh
Các nước đều nhận thức được rằng muốn thúc đẩy phát triển viễn thông cần
phải có sự tham gia của nguồn vốn tư nhân. Mở cửa thị trường là phương thúc
cơ bản để thu hút các nguồn vốn tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân mới có giấy
phép cung cấp dịch vụ viễn thông sẽ cạnh tranh với các doanh nghiệp nhà nước
và cạnh tranh với nhau. Tự do hoá và phân cấp quản lý là chìa khoá để cạnh
tranh trong thị trường viễn thông, trong chiến lược phát triển và thúc đẩy quá
trình phân phối hoặc phân phối lại các dịch vụ viễn thông.
7
Có ít nhất hai lý do liên quan với mức độ cạnh tranh trong công nghiệp viễn
thông
Lý do thứ nhất rất rõ ràng. Đó là lợi ích kinh tế và các lợi ích khác đem lại
cho khách hàng nhờ truy nhập đến các ssản phẩm và dịch vụ mới. Các sản phẩm
mới như kết nối điện thoại vô tuyến điện đang thay thế dần các sản phẩm cũ và
cung cấp các dịch vụ cao cấp như điện thoại vô tuyến, điện thoại di động và
truyền số liệu tốc độ cao .Một số dịch vụ mới hơn đặc biêt có lợi cho khách hàng
đang sống và làm việc ở các vùng hẻo lánh. Ví dụ, tru y nhập Internet đã chứng
tÁ khả năng tạo ra các ngành kinh doanh mới.
Thứ hai, có lợi ích kinh tế đáng kể khi ứng dụng các công nghệ mới hiệu
quả và kịp thời. Các lợi ích này bao gồm cả về vĩ mô và vi mô, cả động và
tĩnh.Những trì hoãn không hợp lý trong triển khai công nghệ mới hoặc việc thay
đổi hướng đầu tư do quản lý giá dẫn đến chức năng kinh tế không đạt hiệu quả
tối đa để tạo thuận lợi cho khách hàng. Trong một số trường hợp, như đối với
công nghệ di động tương tự – tế bào, triển khai chậm chạp dẫn đến việc ứng
dụng công nghệ bị lỗi thời và khi được sử dụng rộng rãi thì kém hiệu quả.
Những trở ngại trong triển khai công nghệ mới cũng làm giảm tỷ lệ tăng trưởng
và của ngành viễn thông và toàn bộ nền kinh tế.Trong nhiều trường hợp, các chi
phí liên quan đến ảnh hưởng động đôi khi lại cao hơn các chi phí phúc lợi tĩnh.
3.2.2.Vai trò của nhà quản lý trong thị trường cạnh tranh
Vai trò quan trọng của nhà quản lý
Nhà quản lý có vai trò quan trọng trong việc hình thành một thị trường viễn
thông cạnh tranh. Việc xây dựng các thể chế có ảnh hưởng đến cơ cấu của thị
trường. Tại các nước có mô hình tổ chức theo kiểu châu Âu dưới dạng Tổ chức
Bưu chính Viễn thông( PTO ) như Việt Nam và Nhật Bản , vai trò quan trọng
nhất của nhà quản lý là xây dựng các điều kiện cạnh tranh giữa các nhà khai thác
độc quyền của nhà nước và các nhà khai thác mới. Nhà quản lý Viễn thông cần:
thiết lập và duy trì các điều kiện để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh,
ngăn chặn những ảnh hưởng có hại từ các nhà khai thác lớn và chủ đạo.
8
Việc định hướng tới thị trường viễn thông cạnh tranh làm tăng hiệu quả
quản lý của nhà khai thác chủ đạo, các tổ chức độc quyền trước đây. Điều này
mang lại nhiều lợi ích cho dân chúng.
Các vấn đề quan tâm của nhà quản lý
Nhìn chung, nhà quản lý có hai nhệm vụ cơ bản. Thứ nhất là thiết lập một
thị trường viễn thông có hiệu quả và lành mạnh. Thứ hai là xây dựng chính sách
đảm bảo mang lại lợi ích từ sự phát triển viễn thông đến mọi người dân trong cả
nước.
Để hình thành một thị trường cạnh tranh trong ngành viễn thông, có một số
vấn đề cơ bản mà các cơ quan quản lý nhà nước cần phải quan tâm xem xét:
+Đẩy mạnh việc tách hạch toán độclập các công ty trực thuộc
Nhà quản lý phải tách nhà khai thác chủ đạo và các công ty trực thuộc của
nó để tạo điều kiện thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả, công bằng và hợp lý hoá cơ
cấu doanh nghiệp.
+ Thiết lập cấu trúc mạng mở
Nhà quản lý phải xây dựng các điều kiện kết nối rõ ràng về cả hai mặt kỹ
thuật và kinh tế. Để đảm bảo cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh, các thành viên
trực thuộc của nhà khai thác chủ đạo và các nhà khai thác mới phải được kết nối
vào mạng đường trục với các điều kiện như nhau.
+ Giám sát việc bao cấp chéo
Nhà quản lý cho phép các nhà khai thác chủ đạo tách biệt các loại chi phí
trên mạng và cụ thể hoá mỗi chi phí. Nhà quản lý phải ngăn chặn việc bao cấp
chéo cho các dịch vụ cạnh tranh từ các dịch vụ khác. Nhà khai thác chủ đạo cụ
thể hoá các điều kiện cung cấp dịch vụ với các công ty thành viênvà dành cho
các nhà khai thác mới điều kiện tương tự.
+Bảo vệ thông tin quản lý của các nhà khai thác mới
Nhà khai thác chủ đạo có thể lấy các thông tin quản lý của nhà khai thác
mới thông qua đàm phán và kết nối. Nhà quản lý phải có các biện pháp giữ bí
mật các thông tin này
9
+Khai thác các thông tin và số liệu đã có
Nhà khai thác chủ đạo đã có các thông tin và số liệu tích luỹ qua thời gian
kinh doanh lâu dài. Nhà quản lý buộc nhà khai thác chủ đạo công khai các thông
tin và số liệu của họ như thông tin về kỹ thuật cơ bản của mạng, thông tin về
tiêu chuẩn hoá, các bỏo cáo nghiên cứu và phát triển.
+Phân cấp quản lý tại cơ sở của khách hàng ( CPE)
Nhà quản lý cần đơn giản hoá các quy địng về thiết bị tại cơ sở khách hàng
và chỉ cần kiểm tra chủng loại để kết nối vào mạng. Việc đơn giản hoá này sẽ
kích thích thị trường thiết bị tại cơ sở của khách hàng ( CPE )
3.2.3.Những mặt trái của cạnh tranh
Vốn tư nhân không kể trong nước hay nước ngoài sẽ được thu hút thông
qua thị trường cạnh tranh. Hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân sẽ bị chi
phối bởi lợi nhuận và họ thường không muốn tham gia vào các thị trường phi lợi
nhuận. Ví dụ, khu vực nông thôn không có nhiều hộ gia đình có khả năng sử
dụng dịch vụ viễn thông, các khu vực thành thị nghèo cũng khó có khả năng sử
dụng dịch vụ viễn thông, việc cung cấp tới các vùng hẻo lánh lại đòi hÁi chi phí
đầu tư lớn. Các khu vực này không mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà đầu tư.
Vấn đề là ai sẽ lắp đạt các cơ sở viễn thông ở các khu vực không có lợi nhuận.
Chính phủ sẽ có trách nhiệm đảm bảo dịch vụ viễn thông được cung cấp tới
mọi người dân và phải xem xét các biện pháp cung cấp dịch vụ tới các khu vực phi
lợi nhuận. Nghĩa vụ cung cấp dịch vụ phổ cập chính là câu trả lời cho vấn đề này.
Nhìn chung, khu vực kinh tế quốc doanh sẽ phải tiếp tục phát triển cơ sở hạ
tầng viễn thông khi đạt được một mật độ điện thoại nhất định. Các tổ chức chính
phủ hoặc công cộng của các nước đang phát triển không thể tài trợ cho các dự án
này bằng nguồn vốn của mình. Vì vậy, các dự án phát triển viễn thông phải sử
dụng vốn nước ngoài. Tuy nhiên , Chính phủ cần kiểm soát nguồn vốn này theo
chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
3.3.Kinh nghiệm từ một số nước
10
Mở cửa thị trường và khuyến khích cạnh tranh trong viễn thông
Tại Nhật Bản, từ tháng 4/1985 bắt đầu giai đoạn một của quá trình cải cách viễn
thông. Trong giai đoạn này, Nhật Bản tiến hành mở cửa thị trường viễn thông,
bắt đầu có cạnh tranh và tư nhân hoá NTT. Năm 1995 là giai đoạn hai của quá
trình cải cách với chính sách cạnh tranh tự do. Những nguyên tắc cạnh tranh bắt
đầu được ban hành. Giai đoạn này tập trung vào chính sách xúc tiến kết nối và
cơ cấu lại NTT. Tháng 7/1999, chính sách cạnh tranh được thúc đẩy xa hơn, chú
trọng phổ biến và phát triển Internet, chuẩn bị cho môi trường truyền thông, xúc
tiến và phát triển sử dụng radio. Từ tháng 6/2001, Nhật Bản có thêm chính sách
mới cho khuyến khích cạnh tranh trong đấu thầu để xúc tiến cách mạng công
nghệ thông tin và xúc tiến xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan đến công nghệ
thông tin. Uỷ ban giải quyết tranh chấp trong kinh doanh viễn thông và cơ cấu
quỹ phổ cập dịch vụ được thành lập . NTT được mở rộng sự tự do trong điều
hành kinh doanh.
Nhờ chính sách khuyến khích cạnh tranh nên số nhà khai thác trong thị
trường viễn thông đó tăng lên đáng kể. Vào tháng 1/1985 Nhật Bản có tổng số
87 nhà khai thác, đến tháng 6/2003 tổng số đó có 11.540 nhà khai thác, gấp 132
lần so với 18 năm trước đó. Cước phí dịch vụ viễn thông cũng giảm đều. Cước
điện thoại đường dài và dịch vụ điện thoại quốc tế hiện nay chỉ còn bằng chưa
đến 10% so với năm 1985. Thói quen sử dụng dịch vụ điện thoại di động cũng
thay đổi. Đến tháng 11/2000, số thuê bao di động đó vượt số thuê bao cố định.
Vào thời điểm này, số thuê bao di động đó đạt 62,8 triệu trong khi thuê bao cố
định mới đạt 62,2 triệu.
Số lượng thuê bao băng rộng đặc biệt là DSL đó tăng mạnh. Tháng 9/2003
đó có 12,29 triệu thuờ bao trong đó có hơn 9,2 triệu thuờ bao DSL.
Sau 3 năm nữa giấy phép khai thác dịch vụ di động thế hệ thứ hai (2G) sẽ
hết hạn ở một số nước. Các nhà quản lý sẽ phải xem xét cấp các giấy phép mới
11
cho các nhà khai thác 2G, có tiếp tục chuyển sang nắm giữ kinh doanh 3G, bao
gồm cả phổ tần số hay là chuyển nú cho các nhà khai thác mới. Các nhà quản lý
cũng sẽ phải xem xét cần thiết có bao nhiêu nhà khai thác cạnh tranh với nhau
trên thị trường của họ: Nói một cách đơn giản, có nhiều thành viên tham gia
cạnh tranh có nghĩa là sự cạnh trạnh diễn ra càng mạnh, tuy nhiên thị trường sẽ
như thế nào nếu có quá nhiều nhà khai thác. Chắc chắn là sẽ khởi động một cuôc
chiến giữa các nhà tham gia khai thác 3G, khi mà họ cảm thấy phải trả quá nhiều
cho giấy phép của mình, và một sự xâm nhập mới sẽ làm giảm giá trị đầu tư của
họ.
Tại khu vực châu Á - ThÁi Bình Dương, các nhà quản lý HongKong,
OFTA, cấp giấy phép kinh doanh 2G có thời hạn ngắn hơn các loại giấy phép
khác. Do mức độ thấp của mật độ dich vụ mobile data ở Hongkong OFTA muốn
làm sôi động thị trường này bằng việc làm hội tụ các nhà khai thác 3G.
Đề xuất của OFTA
Hongkong là một trong những nơi có sự cạnh tranh cao trong thị trường
viễn thông trên thế giới. Hongkong có 11 mạng 2G của 6 nhà khai thác dịch vụ
trên số dân là 8,7 triệu người, mật độ gần như bóo hoà. OFTA đấu giá 4 giấy
phép 3G vào năm 2002, chỉ có 4 nhà khai thác tham gia, và tất cả đều đang nắm
giữ giấy phép 2G. Giấy phép 3G yêu cầu mỗi nhà khai thác cung cấp 30% dung
lượng của nó cho dịch vụ MVNO (khai thác mạng ảo di động). Các nhà tham
gia đấu thầu khai thác 3G sẽ đấu giá trên cơ sở trả tiền quyền khai thác: phần cố
định tối thiểu 50 triệu $HK một năm trong 5 năm đầu và 5% tổng thu nhập cho
các năm tiếp theo. Đề xuất của OFTA là:
- Cấp mới 9 giấy phép 900 và 1800MHz 2G cấp cho 6 nhà khai thác 2G
đang cung cấp dịch vụ GSM. Các nhà khai thác 2G sẽ được cho phép chuyển
sang 3G. Giấy phép mới có giá trị như giấy phép 3G bao gồm cả yêu cầu cung
cấp MVNO và tiền mua quyền khai thác.
12
- OFTA thu lại giấy phép tần số cấp cho Hutchison khai thác mạng CDMA one
và của CSL khai thác mạng TDMA. Cả 2 có dưới 40.000 thuê bao, theo OFTA
không đáng được xem xét cấp mới Vì không phát triển được thị trường.
- OFTA dự định thay thế phổ dùng cho TDMA sang dùng CDMA. Các giấy
phép 3G mới yêu cầu cung cấp cho 50% dân số với tốc độ dữ liệu cao nhất đạt
2Mbps trong 3 năm và 25% hoặc 50% dung lượng là của dịch vụ số liệu. OFTA
cũng không đưa ra loại công nghệ áp dụng nhưng thừa nhận rằng giấy phép có
thể chỉ cấp cho công nghệ CDMA2000. Giấy phép mới cũng bao gồm yờu cầu
về phạm vi cung cấp MVNO và mức phớ.
- Nếu các nhà khai thác 2G không tham gia đấu giá dịch vụ 3G và giấy
phép CDMA2000 thuộc về nhà khai thác dịch vụ mới, Hongkong sẽ có 7 mạng
3G, mỗi một mạng có thể chỉ có một MVNO: tổng số 14 nhà khai thác 3G hoặc
mỗi mạng có 600.000 người dùng so với mỗi nhà khai thác 3G có 28-40 triệu
người dùng ở Nhật.
So sÁnh với Nhật/Hàn Quốc
Hongkong có mức độ canh tranh thấp ở dịch vụ mobile data. Mỗi người
Hongkong chỉ gửi trung Bình 11 SMS một tháng so với trên 200 SMS một tháng
ở Nhật và Hàn Quốc. Không đến 1,5 % thuê bao di động ở HongKong truy nhập
Internet so với 1/2 ở Hàn Quốc và xấp xỉ 80% ở Nhật.
Các nhà khai thác 3G hiện nay sẽ triển khai mạng WCMA: Hutchison đó
triển khai từ 1/2004 và 3 nhà khai thác khác triển khai sau 12 tháng.
OFTA tin rằng bằng việc đưa ra tiêu chuẩn CDMA 2000, đó được sử dụng ở
Nhật và Hàn Quốc sẽ tạo ra bức tranh mới cho thị trường ở đây. Tuy nhiên
OFTA đó sai lầm khi xem xét nguyên nhân thành công của dịch vụ Mobile data
tại Nhật và Hàn Quốc. Mobile data đó làm khởi sắc ở Nhật và Hàn quốc những
mạng di động có tốc độ số liệu thấp như mạng 2G và 2.5G ở Hongkong hiện
nay. Mật độ Mobile Internet ở Hàn Quốc đạt gần 40% nhiều gấp 30 lần mật độ ở
13
Hongkong, trước khi triển khai CDMA 1x EVDO. ở Nhật, dịch vụ số liệu bắt
đầu được phân chia cho các mạng PDC của DoCoMo, KDDI và J-phone với tốc
độ số liệu tối đa 9,6Kbps. CDMA one chỉ chiếm phần nhỏ trong thị trường di
động của Nhật. Mạng tốc độ cao không được triển khai ở Nhật cho đến giữa
năm 2002, trong khi vào thời gian này, mật độ mobile Internet đó có 60% tổng
số người dùng.
Công nghệ CDMA2000, do đó, không thể là viên đạn phù thuỷ cho mục
đích của OFTA. Việc mở rộng dịch vụ Mobile data ở Nhật và Hàn Quốc được
định hướng bằng phương tiện quan hệ với cán cân lớn của thị trường, số lượng
nhỏ các nhà khai thác, lợi nhuận tốt của mạng 2G, có sự hợp tác giữa các nhà
khai thác và sản xuất máy cầm tay, và sự cho phép mở rộng dịch vụ ứng dụng
trên mobile của chính quyền.
Nếu các nhà quản lý học được bất kỳ bài học nào về sự thành công của dịch
vụ Mobile Data ở Nhật và Hàn Quốc, đó sẽ là thách thức với các thị trường nhỏ
đối mặt với bản sao của thành công đó. Việc OFTA đề xuất tăng số lượng các
nhà khai thác 3G ở Hongkong sẽ làm chật ních thị trường dường như đó dư
thừa, sự ảnh hưởng của nó sẽ làm giảm quy mô của nhà khai thác vốn đó nhỏ.
Bao nhiêu là quá nhiều?
Phải thừa nhận rằng cạnh tranh là tốt và có nhiều nhà tham gia cạnh tranh
còn tốt hơn nữa. Song các nhà quản lý, người chịu trách nhiệm thúc đẩy cạnh
tranh để đem lại lợi ích cho xã hội cần phải xác định bao nhiêu nhà khai thác là
đủ.
Câu trả lời đơn giản là có điều gỡ đó tác động làm thay đổi sự tuần hoàn tự
nhiên của dũng vốn đầu tư vào mạng di động. Khi bắt đầu triển khai mạng của
mình, các nhà khai thác phải thực hiện đầu tư trước khi kiếm được lợi nhuận từ
bất kỳ khách hàng nào. Trường hợp để có lợi nhuận thu được từ việc mở rộng
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét