3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận này chỉ đề cập đến tư tưởng về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
Hồ Chí Minh và việc vận dụng của Đảng ta vào công cuộc đổi mới xây
dựng đất nước hiện nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ.
4.1 Mục đích
Làm sáng tỏ chính sách, đường lối chỉ đạo về tôn giáo của Đảng và Nhà
nước ta, cũng như sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo,
tín ngưỡng vào tong công cuộc dổi mới xây dựng đất nước. Chỉ ra được âm
mưu của kẻ thù khi lợi dụng chiêu bài “tự do tín ngưỡng, tôn giáo” nhằm
lật đổ thành quả cách mạng của quần chúng nhân dân cũng như Đảng và
Nhà nước.
4.2. Nhiệm vụ:
Luận văn có hai nhiệm vụ chủ yếu
- Khái quát tư tưởng của Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng và tôn giáo.
- Làm sáng tỏ sự vận dụng của Đảng ta những tư tưởng này của Người
vào công cuộc đổi mới hiện
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
- Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng ta về tôn giáo.
- Một số thành tựu gần đây của giới khoa học khi nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Ngoài phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp cấu trúc hệ thống, lịch
sử, lôgíc, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như so sánh,
phân tích tổng hợp.
5
6. Đóng góp của đề tài.
Khóa luận là sự tìm hiểu thêm của bản thân về vấn đề tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta vào công cuộc đổi
mới hiện nay.
Là sự hệ thống lại các kiến thức các nghiên cứu của các nhà khoa học
khác dực trên hiểu biết của bản thân.
Do vậy, khóa luận không có đóng góp gì đáng kể đối với vấn đề mà bản
thân đã lựa chọn.
7. Kết cấu.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, khóa luận gồm có 2
chương 5 tiết.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ DO TÍN NGƯỠNG CỦA NHÂN
DÂN
1.1. Các tiền đề hình thành quan điểm tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đó, những quan điểm lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin về tôn giáo nói chung và vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói
riêng là điểm xuất phát cho những tư tưởng của Hồ Chí Minh về sau khi luận
giải trong điều kiện hoàn cảnh mới của cách mạng Việt Nam.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo không chỉ là hình thái ý thức xã
hội mà còn là một thực thể xã hội có quá trình phát sinh và phát triển của
nó. Cơ sở đầu tiên dẫn đến sự hình thành của tôn giáo là sự tác động của
các yếu tố kinh tế - xã hội.
Khi xã hội công xã nguyên thủy còn tồn tại, trình độ của lực lượng sản
xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp kém, con người luôn cảm thấy
yếu đuối và bất lực trước sự hùng vĩ cũng như khắc nghiệt của mẹ thiên
nhiên. Cho nên, người nguyên thủy đã gắn những sức mạnh siêu nhiên cho
tự nhiên. Rồi con người càng phát triển, xã mội mới ra đời, ngoài sức mạnh
của tự nhiên, lúc này sức mạnh xã hội đã xuất hiện. Và có những lúc con
người cũng không hiểu được nguyên nhân của sức mạnh ấy. Lúc này đây,
xã hội đã mất đi “quy luật vàng” từ thời công xã nguyên thủy. Xã hội có
giai cấp, xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, những mâu thuẫn đối
kháng dần hình thành và ngày càng phát triển. Trong xã hội có giai cấp đối
7
kháng, các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp, con người càng chịu tác
động bởi nhiều yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, may rủi, bất ngờ…với những
hậu quả khó lường nằm ngoài ý muốn và khả năng điều chỉnh của mình.
Một lần nữa con người lại bị động, bất lực trước lực lượng tự phát nảy sinh
trong lòng xã hội. Cùng với sự bần cùng về kinh tế, cộng thêm sự áp bức về
chính trị, những bất công xã hội luôn luôn hiện diện, sự thất vọng cũng như
bất lực trong các cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị con người ta đã
dần tin vào tôn giáo.
Ngoài ra, sự xuất hiện của tôn giáo còn do sự nhận thức của con người
về thế giới khách quan. Và đây là một quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn.
Nhận thức của con người là một quá trình thống nhất giữa nội dung khách
quan và mặt ý thức chủ quan. Một mặt, hình thức phản ánh đa dạng, phong
phú bao nhiêu thì con người càng có khả năng nhận thức đầy đủ, sâu sắc về
thế giới khách quan bấy nhiêu: mặt khác, do đặc điểm của quá trình nhận
thức: từ cảm giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm, phán đoán, đến suy luận
không chỉ tạo ra khả năng nhận thức đầy đủ thế giới mà còn có thể phản
ánh sai làm và rời xa hiện thực.
Bên cạnh đó sự ra đời của tôn giáo còn có sự ảnh hưởng của yếu tố tâm
lý, tình cảm của con người. Đối với sự ra đời và tồn tại của tôn giáo đã
được các nhà triết học cổ đại nghiên cứu, họ thường đưa ra các luận điểm
như: “Sự sợ hãi tạo ra thần linh”, V.I.Lênin tán thành các phân tích trên và
bổ sung thêm: “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản - mù quáng vì
quần chúng nhân dân không thể đoán được nó - là thế lực bất cứ lúc nào
trong đời sống của người vô sản và tiểu chủ, cũng đe dọa đem lại cho họ và
đang đem lại cho sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫn nhiên”, làm cho
họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng, một
gái điếm và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn
giáo hiện đại”. Nhưng không phải chỉ có sự sợ hãi trước sức mạnh tự phát
của tự nhiên và xã hội mới dẫn con người đến nhờ cậy ở thần linh, mà ngay
8
cả những tình cảm tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng, tình yêu
thương… trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với
con người cũng được thể hiện qua các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo.
Do vậy, tôn giáo sẽ còn tồn tại lâu dài, nhưng không phải là hiện tượng
xã hội vĩnh hằng, bất biến. Tôn giáo có tính lịch sử của nó, nó có bước khởi
đầu, biến động và có thể sẽ mất đi khi mà: “ Con người không chỉ mưu sự,
mà còn làm cho thành sự nữa, thì khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện
nay vẫn còn đang phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ mất đi, vì khi đó
sẽ không có gì để phản ánh nữa”. [1; 12 - 13].
Ngoài ra, tôn giáo còn mang tính quần chúng. Tính quần chúng của tôn
giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tôn giáo chiếm tỉ lệ trong
dân số mà còn ở chỗ tôn giáo là một trong các hình thức sinh hoạt văn hóa
tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo
hướng con người hi vọng vào hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia, song nó
luôn luôn phản ánh khát vọng của người bị áp bức về một xã hội tự do,
bình đẳng bác ái. Tôn giáo là một trong những nhu cầu tinh thần của bộ
phận không nhỏ quần chúng nhân dân lao động.
Không chỉ thế, tôn giáo còn mang một tính chất đặc biệt. Đó là tính
chính trị. Khi còn ở thời kì công xã nguyên thủy, tôn giáo chỉ phản ánh
nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới quanh
mình. Nhưng, khi xuất hiện giai cấp thì tôn giáo thường phản ánh lợi ích
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tính chính trị của tôn giáo chỉ có khi xã hội
đã phân chia giai cấp, khi có những lực lượng chính trị lợi dụng tôn giáo vì
mục đích ngoài tôn giáo. Trong lịch sử đương đại, những cuộc chiến tranh
tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ những lợi ích vật
chất của những lực lượng xã hội khác nhau. Trước khi có cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp trên mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự… thường diễn ra
các cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng gắn với tôn giáo. Những
cuộc đấu tranh trên hệ tư tưởng tôn giáo luôn là một bộ phận của đấu tranh
9
giai cấp. Và, khi xã hội xuất hiện giai cấp thì tôn giáo luôn bị các giai cấp
thống trị bóc lột sử dụng như một công cụ quan trọng để bảo vệ lợi ích của
mình.
Vì vậy để có thể có cách ứng xử với tôn giáo cho đúng đắn, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề ra các nguyên tắc ứng xử với
tôn giáo.
Thứ nhất: khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo, phải
gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, gây dựng xã hội mới.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: muốn thay đổi ý thức
xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội; muốn xóa bỏ ảo
tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh ra ảo
tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo là gián
tiếp đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng. Điều cần thiết trước
hết là phải xác lập được một thế giới hiện thực không có áp bức, bất công,
nghèo đói và thất học… cùng những quan hệ nảy sinh trong xã hội. chỉ có
thông qua quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần và trì tuệ cho con người thì mới có khả năng gạt
bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Sự thống nhất về lợi ích dân tộc, giai cấp và quốc gia sẽ tạo điều kiện
tiến tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động.
Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là lãng quên hay từ bỏ cuộc đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng mà ngược lại, cần quan tâm và coi trọng việc tuyên
truyền, giáo dục thế giới quan khoa học duy vật khoa học một cách thường
xuyên dưới nhiều hình thức. Nhưng công tác tuyên truyền, giáo dục phải
gắn liền và phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội mới.
Thứ hai: tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân.
Trong XHCN, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, và
không tín ngưỡng là một nguyên tắc. Quyền ấy, không chỉ thể hiện về
10
mặt pháp lý mà còn được thực hiện trên thực tiễn một cách nhất quán,
lâu dài trong xã hội XHCN. Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng trong hệ thống tư tưởng Chủ nghĩa Mác – Lênin là:
“Mỗi người đều phải được hoàn toàn tự do không những muốn theo tôn
giáo nào thì theo, mà còn phải có quyền truyền bá bất kỳ tôn giáo nào,
hoặc thay đổi tôn giáo”. Nhà nước XHCN thừa nhận và đảm bảo cho mọi
công dân bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các tôn giáo được Nhà
nước công nhận đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người cần có ý thức
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, và không tín ngưỡng của
người khác; đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để hoạt dộng đi ngược lại với lợi ích dân tộc và những kẻ hành nghề
mê tín dị đoan.
Thứ ba: cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn
giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau thì vai trò, tác động của từng tôn
giáo đối với đời sống xã hội không như nhau. Quan điểm, thái độ của các
giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội luôn có
sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện, nó biểu hiện như một phong trào
bảo vệ lợi ích của người nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn
giáo ấy lại biến thành công cụ của giai cấp thống trị bóc lột. Có những giáo
sĩ suốt đời hành đạo theo xu hướng đồng hành cùng với dân tộc; nhưng
cũng có những người lại hợp tác với các thế lực phản động đi ngược lại với
lợi ích của quốc gia. Có những vị chân tu luôn “Kính chúa yêu nước”, thiết
tha muốn sống “tốt đời đẹp đạo”; nhưng lại có những người sẵn sàng hi
sinh quyền lợi của Tổ quốc cho lợi ích của bọn ngoại bang. Điều đó khiến
cho nhà nước XHCN luôn cần phải có thái độ, cách ứng xử phù hợp với
từng đối tượng, từng trường hợp cụ thể, như Lênin đã nhắc nhở: “Người
11
mác - xít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”, khi giải quyết vấn
đề tôn giáo.
Thứ tư: cần phải phân biệt hai mặt nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo.
Tôn giáo luôn tồn tại hai mặt là: nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chân
chính của nhân dân và một bộ phận lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vì mục
đích phi tôn giáo.
Để phân biệt rõ được hai mặt này, trên thực tế không hề đơn giản,
nhưng lại rất cần thiết. Vì có phân biệt được hai mặt đó mới tránh khỏi
khuynh hướng tả hoặc hữu trong quá trình quản lý, ứng xử với những vấn
đề nảy sinh từ tín ngưỡng, tôn giáo. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo là một
nhu cầu về tinh thần chính đáng của đồng bào có đạo và nó sẽ còn tồn tại
lâu dài. Mọi biểu hiện vi phạm quyền ấy là trái với tu tưởng của chủ nghĩa
Mác - Lênin .
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, nhà nước
XHCN phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ các yếu tố chính trị phản động
còn tồn tại trong tôn giáo.
Như vậy, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn
gốc, bản chất của tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở hình thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học trong tư duy Hồ Chí Minh về tôn giáo cũng
như tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
đã chỉ rõ được bản chất, nguồn gốc, tình chất của xã hội, khẳng định tôn
giáo còn tồn tại lâu dài dưới chủ nghĩa xã hội và sẽ mất đi khi không còn
cơ sở tồn tại.
Đây là những luận điểm quan trọng và cần thiết, đồng thời nó quyết
định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn
giáo, tự do tôn giáo. Bởi chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã trang bị cho
Người thế giới quan và phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu,
xem xét để đi đến nhận thức và giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo phù
12
hợp với điều kiện lịch sử Việt Nam và xu hướng chung đúng đắn nhất.
Ngoài việc lấy quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin làm thế giới quan
và phương pháp luận khoa học, Hồ Chí Minh còn kế thừa những giá trị
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, trực tiếp là những tư
tưởng tích cực, tiến bộ của các tôn giáo trên thế giới.
Được sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, có thể nói
Hồ Chí Minh đã được tiếp cận với những giá trị tốt đẹp của dân tộc một
cách sâu sắc từ rất sớm. Đó là: truyền thống kiên cường, bất khuất trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm; cần cù sáng tạo trong lao động; coi
trọng đạo lý, yêu chuộng hòa bình, đoàn kết, gắn bó trong cộng đồng
làng nước Việt Nam. Có thể xem, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở hàng đấu
hình thành nên tư tưởng của Người nói chung và về tôn giáo nói riêng.
Nhưng trong đó, cơ sở quan trọng nhất để hình thành nên tư tưởng về tự
do tín ngưỡng, tôn giáo phải kể đến yếu tố coi trọng đạo lý, cũng như
yêu thương đòan kết, gắn bó trong cộng đồng làng nước của dân tộc Việt
Nam. Sự gắn bó này, đã không phân biệt người có đạo với kẻ không theo
đạo. Họ vẫn đối xử với nhau bình đẳng thân thiết, không có bất kì sự kì
thị nào. Điều này đã tạo nên khối đại đoàn kết vững chắc trọng mọi cuộc
đấu tranh chống lại mọi kẻ thù. Và Hồ Chí Minh đã nhận ra được chân
giá trị này từ rất sớm, từ đó dần hình thành nên tư tưởng về tự do tín
ngưỡng trong hệ thống tư tưởng của Người.
Mặt khác, chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một
quốc gia là điểm giao lưu của nhiều văn hóa khác nhau. Vì vậy, những giá
trị văn hóa này góp phấn tạo nên hệ tư tưởng của Người. Việt Nam là một
quốc gia nằm ở bán đảo Đông Dương, là nơi giao nhau của các tuyến
đường hàng hải quan trọng. Ngoài ra, đây còn là nơi giao thoa của nhiều
văn hóa khác nhau: Phật giáo từ Ấn Độ, Phật giáo Trung Hoa, Nho giáo,
Đạo giáo…Từ nền tảng này, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tìm hiểu và am
hiểu một cách sâu sắc về đời sống của người dân lao động. Đây là một
13
trong những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tìn ngưỡng, tôn
giáo.
Như đã nói ở trên Việt Nam là một đất nước đa dạng về văn hóa, là nơi
giao thoa của nhiều văn hóa khác nhau. Vì vậy, từ rất sớm Người đã được
biết đến văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ và chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng
Nho giáo, Phật giáo từ các nền văn hóa đó, cũng như chịu sự tác động từ
đời sống sinh hoạt hàng ngày của gia đình và xã hội. Đối với Phật giáo
Người đã tiếp nhận các tư tưởng về lòng bao dung, nhân ái, độ lượng, bình
đẳng bác ái, vô ngã vị tha, đại từ đại bi. Để từ đó thấy được rằng mọi người
đều có quyền tự do, không chỉ trong đời sống vật chất mà cả trong đời sống
tinh thần mà đặc trưng nhất đó là đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. Đối với
Nho giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu các phạm trù “Cần - Kiệm – Liêm -
Chính”, “Chí công vô tư”, “Nhân – Nghĩa - Lễ - Trí - Tín”, và các quan
điểm như “Dân vi quý”, “Kỉ sở bất dục vất thi ư nhân”. Những quan điểm
và phạm trù này đã hình thành trong Hồ Chí Minh tư tưởng đối nhân xử
thế, coi trọng mọi người như nhau, nhất là “điều mình không muốn thì
đừng làm cho người ”. Đây là nền tảng của việc hình thành nền tảng tư
tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Sau này, Người còn
được tiếp xúc với những tôn giáo khác trên thế giới như Thiên chúa…
Trong Thiên chúa giáo Người tìm thấy tấm lòng bao dung cao cả, tha thứ
cho chính kẻ thù của mình.
Sau này, trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã được tiếp
xúc với nhiều tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Những tư tưởng này đã góp
phần hình thành nên hệ tư tưởng của Người. Hồ Chí Minh đã tiếp cận các
tư tưởng tiến bộ trên thế giới như “Tư tưởng tự do - bình đẳng - bác ái”,
“Nhân quyền và dân quyền” trong cách mạng tư sản Pháp; tư tưởng tự do
bình đẳng trong “Tuyên ngôn độc lập ” của nước Mỹ năm 1776. Có thể nói
những tư tưởng tiến bộ này đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nên lí luận tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Vì vậy mà
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét