nước trồng lạc. Ở Xenegan giá trị từ lạc chiếm 1/2 thu nhập, chiếm 80% giá
trị xuất khẩu. Ở Nigieria chiếm 60% giá trị xuất khẩu .
Trong các loại cây có dầu trồng hàng năm trên thế giới, lạc là cây đứng
thứ hai sau đậu tương về diện tích và sản lượng. Ở châu Á có 25 nước trồng lạc,
Việt Nam là nước đứng thứ 5 sau Ấn Độ, Trung Quốc, Inđônêxia và Myama.
Hiện nay ở nước ta, lạc là một trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu quan
trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng năm là 100 triệu USD [110].
Không những ở nước ta mà trên thị trường thương mại thế giới lạc cũng
là mặt hàng nông sản xuất khẩu đem lại kim ngạch cao cho nhiều nước. Ở
nước ta lạc sản xuất hằng năm phần lớn dành cho xuất khẩu. Những năm gần
đây chúng ta đã xuất khẩu khoảng 70 - 80 ngàn tấn lạc nhân qua các nước
như: Đức, Pháp, Ý cho nên lạc cũng là cây đem lại nguồn thu ngoại tệ quan
trọng [94].
Ở Việt Nam: thị trường xuất khẩu lạc chính của Việt Nam hiện nay là:
Singapo, Pháp, Cộng Hoà Liên Bang Đức, Nhật, Indonexia, Đài Loan, Hồng
Kông. Đến năm 1999 do chất lượng lạc nhân chúng ta không cao nên một số
nước như: Hồng Kông, Đài Loan đã chuyển sang mua lạc của Trung Quốc. Sản
xuất lạc đạt hiệu quả kinh tế rất cao, tỷ suất lợi nhuận tới 31,86% (cao hơn một
số nông sản khác) và xuất khẩu lạc góp 15,11% cho nguồn vốn xuất khẩu [6].
Hiện nay Việt Nam đứng vào hàng thứ 5 trong 10 nước xuất khẩu lạc lớn
nhất thế giới. Do đó việc đầu tư nghiên cứu để cải tạo giống, kích cỡ hạt, chất
lượng cần được quan tâm hơn.
Xuất khẩu lạc trong những năm qua đóng góp khoảng 15 % trong nguồn
hàng nông sản xuất khẩu. Tuy nhiên chất lượng xuất khẩu lạc của Việt Nam
vẫn chưa thật sự đáp ứng thoả mãn nhu cầu nhập khẩu của một số nước. Vì
vậy cần nâng cao giá trị chất lượng nông sản phẩm để đạt được kim ngạch cao
và mở rộng thị trường xuất khẩu.
5
Xuất khẩu lạc được quy định như sau:
Loại 1: 160 - 180 hạt/100g
Loại 2: 200 - 220 hạt/100g
Loại 3: 230 - 270 hạt/100g
Muốn tăng được thu nhập từ lạc chúng ta phải đa dạng sản phẩm, ngoài
lạc nhân còn phải xuất khẩu cả dầu lạc, khô dầu, nắm bắt thị trường nhạy bén
để đầu cơ tích trữ lạc quả khô.
Phát triển cây lấy dầu nói chung, trong đó cây lạc được Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn xác định là một trong những cây trọng điểm trong
chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của nước ta. Trên cơ sở hệ
thống giải pháp kỹ thuật tổng hợp đồng bộ, tiếp thu kinh nghiệm và những
thành tựu mới của các nước trong thời gian tới về sản xuất lạc, nước ta sẽ có
điều kiện để đạt được đầy đủ các tiêu chí về xuất khẩu. Góp phần phát triển
một nền nông nghiệp bền vững, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao thu nhập
và đời sống của nhân dân.
Nếu Nhà nước có chính sách thỏa đáng để khai thác triệt để những tiềm
năng vốn có của cây lạc thì trong vòng 5 năm (2000 - 2005) năng suất lạc của
Việt Nam sẽ đạt bình quân 1,5 - 2 tấn/ha, diện tích gieo trồng mở rộng tới
400.000 ha và có thể cao hơn nữa.
2.1.3. Vai trò cải tạo đất và xen canh trong hệ thống canh tác đa canh
Giá trị cải tạo đất của lạc ngoài phần thân lá, trên rễ lạc còn có vi
khuẩn cộng sinh có khả năng cố định đạm từ dạng đạm tự do thành dinh
dưỡng cung cấp cho cây trồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng đạm để lại
trên một ha có thể đạt từ 70 - 110 kg/ha/vụ. Chính nhờ khả năng cố định đạm
mà lượng protein trong hạt, trong các bộ phận khác của cây lạc cao hơn nhiều
các cây trồng khác [6].
Lạc là một loài cây họ đậu, có nhu cầu đối với các chất dinh dưỡng không
6
thuộc loại cao lắm, bên cạnh đó lạc có khả năng sử dụng được đạm do vi sinh
vật cố định từ không khí, nhờ vi sinh vật này sống cộng sinh trong nốt sần ở rễ
cây họ đậu. Trong hệ thống cố định N sinh học, giữa vi khuẩn Rhozobium và
cây bộ đậu là quan trọng nhất, ước tính đạt trên 80 triệu tấn mỗi năm tương
đương với lượng phân đạm vô cơ trên toàn thế giới năm 1990 [94].
Cây lạc có khả năng cố định được 72 - 124 kg N /ha, dưới tác động hoá
học, sinh học N phân tử được chuyển thành đạm vô cơ được cây trồng sử
dụng sau đó trả lại cho đất [94].
Mặt khác người ta còn dùng thân lá lạc để cải tạo đất bởi vì trong đó có
tỷ lệ một số chất dinh dưỡng cao.
So sánh với phân chuồng tính theo chất khô thì tỷ lệ lân và kali trong
thân lá lạc xấp xỉ ngang phân chuồng, riêng đạm của thân lá lạc bằng 2 lần
phân chuồng. Cho nên thân lá lạc còn là loại phân xanh có giá trị cả về số
lượng và chất lượng. Mỗi ha lạc cho khối lượng trung bình từ 8 - 10 tấn có
khi đến 15 - 20 tấn thân lá tươi. Hiện nay, hầu hết các vùng trồng lạc đều sử
dụng thân lá lạc làm phân bón cho lúa, màu. Mỗi ha thân lá lạc đủ bón cho 2 -
3 ha lúa và năng suất tăng rõ rệt [52].
Vì vậy người ta trồng lạc luân canh với cây khác, xen canh giữa các cây
hàng rộng như chè, sắn, dâu, dừa, mía ở thời kỳ chưa kép tán, để cải tạo đất,
chống xói mòn và tăng độ phì nhiêu đất.
2.2. Tình hình trồng lạc ở trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình trồng lạc trên thế giới
Lạc được du nhập vào Châu Âu khoảng 500 năm trước nhưng thực sự
phát triển rộng khắp thế giới vào khoảng 125 năm trở lại đây khi công nghiệp
ép dầu lạc ra đời. Hiện nay lạc là cây đứng thứ hai trong số các cây lấy dầu
(về diện tích và sản lượng ) sau đậu tương.
Tình hình sản xuất lạc trên thế giới tính đến năm 2005 được thể hiện
7
qua bảng 2.2:
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất, và sản lượng lạc trên thế giới.
TT Tên nước
Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sảnlượng (triệu tấn)
2003 2004 2005 2003 2004 2005 2003 2004 2005
1 Ấn Độ 8,00 8,00 6,72 9,60 9,30 9,67 7,68 7,44 6,50
2 T-Quốc 5,08 5,12 4,87 26,5 27,41 30,0 13,46 14,03 14,63
3 Nigieria 2,80 2,80 2,88 9,60 9,60 10,1 2,69 2,69 2,93
4 Indonexia 0,68 0,70 0,72 20,10 20,62 20,4 1,37 1,44 1,47
5 Mỹ 0,53 0,56 0,65 35,40 33,90 32,4 1,80 1,90 2,11
6 Xu Đăng 1,90 1,90 1,90 6,70 6,70 6,31 1,27 1,27 1,02
7 Xenegan 0,57 0,64 0,75 6,51 7,20 8,00 0,37 0,46 0,60
8 Myanma 0,57 0,58 0,58 12,30 12,30 12,3 0,70 0,71 0,71
9 Camarun 0,20 0,20 0,20 9,70 9,70 9,75 0,19 0,19 0,19
10 Việt Nam 0,24 0,25 0,26 16,66 17,43 17,4 0,40 0,43 0,45
Thế Giới 25,02 24,92 25,21 14,55 14,40 14,4 36,40 35,88 36,48
Nguồn:FAOSTAT, 2006
Trên thế giới lạc chủ yếu được trồng tập trung ở Châu Á, Châu Phi và
Châu Mỹ. Trong đó Châu Á có diện tích trồng lạc lớn nhất, chiếm 31,3% và
18% sản lượng.
Tính hết năm 2005, diện tích lạc trên thế giới có khoảng 25,21 triệu ha.
Trong đó quốc gia có diện tích lớn nhất là Ấn Độ 6,72 triệu ha, tiếp theo là
Trung Quốc 4,87 triệu ha, Nigieria 2,88 triệu ha, Xu Đăng 1,90 triệu ha,
Indonexia 0,72 triệu ha [6].
Năng suất lạc của các nước trên thế giới chênh lệch nhau khá lớn và
không ổn định qua các năm. Nước có năng suất lớn nhất là Mỹ 32,48 tạ/ha
tiếp theo là Trung Quốc 30,04 tạ/ha, Indonexia 20,41 tạ/ha, Xenegan 8,00 tạ /
ha, Xu Đăng 6,31 tạ/ha.
Mặc dù Ấn Độ là nước có diện tích trồng lớn nhất nhưng năng suất lại
8
không cao. Năng suất cao đạt được ở Israel (trên 65 tạ/ha) nhưng diện tích chỉ
có 3000 ha.
Theo số liệu của FAO, trên thế giới hiện có trên 100 nước trồng lạc, với
tổng diện tích trong các niên vụ từ năm 1998 - 1999 đến 2000 - 2001 đạt
21.630.000ha (1999 - 2000). Diện tích trồng lạc tập trung ở các nước Châu Á
chiếm 63,17% tổng diện tích, Châu Phi 31,81%, Châu Mỹ 5,8%, Châu Âu
0,22%. Các nước có diện tích lớn gồm 10 nước trong đó Ấn Độ có diện tích
lớn nhất đạt 8.100.000ha, Trung Quốc là 4.100.000ha, Nigiêria: 1.190.000ha
(Hoàng Đức Phương và các tác giả, 2003) [82].
Diện tích trồng lạc trên thế giới hàng năm biến động từ: 19,97 - 21,34
triệu ha. Đứng đầu là Ấn Độ: 7,20 - 8,10 triệu ha, tiếp đến là Trung Quốc:
3,72 - 4,20 triệu ha, Nigienia: 0,70 - 0,80 triệu ha, Senegal: 0,62 - 0,73 triệu
ha (USDA, 1999) [22].
Năng suất bình quân thế giới: 1,33 - 1,39 tấn/ha, đứng đầu là Mỹ: 2,81
-3,03 tấn/ha, thứ đến là Trung Quốc: 2,59 - 2,90 tấn/ha, Indonesia: 1,52 tấn/ha
(Ngô Thế Dân và các tác giả, 2000) [33].
Trong khi đó năng suất lạc ở Việt Nam năm 2000 là: 1,45 tấn/ha trên
diện tích 243,9 ngàn ha (Niên giám thống kê năm 2000) [91].
Năng suất biến động lớn giữa các nước trên thế giới. Các nước có năng
suất cao trên diện tích hẹp là Ixraen đạt 68,33 tạ/ha; một trang trại ở nước cộng
hoà Nam Phi đạt 100tạ/ha (Hoàng Đức Phương và các tác giả, 2003) [82].
Như vậy tiềm năng cho năng suất của lạc cũng rất lớn khi được đầu tư
vào công nghệ sản xuất giống.
Sản lượng lạc hàng năm thế giới đạt từ: 26,63 - 29,66 triệu tấn. Đứng
đầu là Trung Quốc: 9,65 - 12,00 triệu tấn, thứ đến là Ấn Độ: 7,85 - 8,00 triệu
tấn, Mỹ: 1,61 - 1,80 triệu tấn (USDA, 1999) [22].
Theo nhận định của các nhà khoa học, tiềm năng để nâng cao năng suất
9
và sản lượng lạc ở các nước còn rất lớn cần phải khai thác. Trong khi năng suất
lạc bình quân của thế giới mới đạt xấp xỉ 1,3 tấn trên hecta ở Trung Quốc, thử
nghiệm trên diện hẹp đã thu được năng suất khoảng 12 tấn trên hecta, cao hơn
9 lần so với năng suất bình quân của thế giới. Trên diện tích rộng hàng chục
hecta, năng suất lạc có thể đạt 9,6 tấn/ha. Gần đây, tại Viện Quốc tế Nghiên
cứu cây trồng vùng nhiệt đới bán khô hạn (IRISAT) Ấn Độ đã thông báo sự
khác biệt giữa năng suất lạc trên các trạm trại nghiên cứu và năng suất trên
đồng ruộng nông dân là từ 4 - 5 tấn/ha. Trong khi năng suất của các cây ngũ
cốc như lúa mì và lúa nước đã gần đạt tới trần và có xu hướng giảm dần ở
nhiều nước trên thế giới thì năng suất cây lạc trong sản xuất còn khác rất xa so
với năng suất tiềm năng. Thực tế này đã gợi mở khả năng nâng cao năng suất
và hiệu quả sản xuất lạc trên cơ sở áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất để khai thác tiềm năng. Chiến lược này đã được áp dụng thành
công ở nhiều nước và đã trở thành bài học kinh nghiệm trong phát triển sản
xuất lạc của các nước trên thế giới (Ngô Thế Dân và các tác giả, 2000) [33].
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lạc ở Việt Nam
Ở Việt Nam cây lạc được trồng từ lâu đời, tuy nhiên không được quan
tâm và phát triển. Trong những năm trở lại đây, cây lạc đã được quan tâm và
phát triển hơn. Nhưng so với một số cây trồng khác thì diễn biến tăng về diện
tích, năng suất và sản lượng đều giảm.
Từ năm 1990 đến nay công tác nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật trồng lạc ở nước đã được quan tâm hơn trước. Các đề tài nghiên cứu cấp
nhà nước và cấp ngành, các dự án trong nước và quốc tế về nghiên cứu và
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trên cây lạc đã được triển khai thu hút sự tham gia
của một đội ngũ đông đảo các cán bộ nghiên cứu đã được khuyến nông trong
cả nước. Phát triển cây lấy dầu, trong đó có cây lạc đã được Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn xác định là một trong những vấn đề trọng điểm trong
10
chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn của nước ta. Hợp tác Quốc tế
trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển cây lạc đã được tăng cường. Thông qua
chương trình hợp tác với ICRISAT và Mạng lưới Đậu đỗ và Cây cốc châu Á
(CLAN), Việt Nam đã có điều kiện cử cán bộ nghiên cứu và khuyến nông đi
đào tạo nâng cao trình độ đồng thời tiếp cận được với các thành tựu mới và học
hỏi, trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu, phát triển sản xuất lạc trên thế giới và
các nước trong khu vực. Một số tiến bộ kỹ thuật phổ biến ở các nước khác đã
được chọn lọc, thử nghiệm và ứng dụng đem lại hiệu quả ở Việt Nam. Dự án
nghiên cứu thử nghiệm các tiến bộ kỹ thuật trồng lạc trọng điểm ở Việt nam đã
được nông dân, cán bộ địa phương, mạng lưới CLAN và các nước trong khu
vực đánh giá cao. Các yếu tố hạn chế chính đối với sản xuất lạc ở nước ta đã
được xác định và trên cơ sở đó các hướng nghiên cứu chính nhằm đáp ứng nhu
cầu của nông dân đã được xây dựng và thực hiện bước đầu đem lại hiệu quả rất
đáng khích lệ. Thí dụ, để khắc phục tình trạng thiếu tro dừa bón cho cây lạc ở
vùng Đông Nam Bộ, Viện Cây có dầu đã nghiên cứu đề xuất chế phẩm thay
thế tro dừa (ACA) vừa tiện lợi trong sử dụng, vừa hạ giá thành sản xuất 6%,
vừa tăng năng suất và chất lượng lạc. Để nông dân chủ động phòng ngừa bệnh
héo xanh vi khuẩn, một bệnh rất phổ biến và khó phòng trừ ở nhiều vùng trồng
lạc nước ta Viện KHKTNN Việt Nam đã chọn ra giống lạc MD
7
kháng bệnh,
năng suất, có chất lượng tốt và khả năng thích ứng rộng đã và đang được phát
triển nhanh trong sản xuất. Đáng chú ý là một số giống lạc mới có tiềm năng
năng suất cao như giống 1660, LVT. LO
2
, VD
1
, LO
5
, ngắn ngày, chịu hạn,
phục vụ cho vùng nước trời với năng suất khá (18 - 25tạ/ha) đã được đưa ra sản
xuất. Một số biện pháp kỹ thuật thâm canh lạc cũng đã được áp dụng như phân
bón NPK cân đối, mật độ gieo thích hợp, kỹ thuật che phủ nilon đã làm tăng
năng suất 30 - 40%. Nhiều mô hình thâm canh lạc đạt năng suất cao trên 3 tấn/
ha đã được trình diễn trên đồng ruộng nông dân ở nhiều địa phương (Ngô Thế
11
Dân và các tác giả, 2000) [33]
Tiềm năng để nâng cao năng suất lạc ở nước ta còn rất lớn. Kết quả
nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy trên diện tích rộng hàng chục
hecta, gieo trồng giống mới với các biện pháp canh tác tiên tiến, nông dân có
thể dễ dàng đạt năng suất lạc 4- 5 tấn/ha, gấp 3 lần so với năng suất lạc bình
quân trong sản xuất đại trà. Điều đó chứng tỏ rằng các kỹ thuật tiên tiến được
áp dụng rộng rãi trong sản xuất sẽ góp phần rất đáng kể trong việc tăng năng
suất và sản lượng lạc ở nước ta. Vấn đề chính hiện nay là làm sao để các giống
mới và các kỹ thuật tiến bộ đến được với nông dân và được nông dân tiếp nhận.
Nhà nước ta đã đề ra chỉ tiêu đưa diện tích cây lạc lên 400.000 ha vào
năm 2005 với năng suất bình quân 1,5 - 2,0 tấn/ha. Để đạt được mục tiêu đề ra
trước hết chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật một cách rộng rãi trong sản xuất. Trên cơ sở áp dụng hệ thống các
giải pháp kỹ thuật tổng hợp đồng bộ, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên
thế giới, trong thời gian tới sản xuất lạc ở nước ta sẽ có điều kiện để đạt được
những thành tựu mới, góp phần phát triển một nền sản xuất nông nghiệp bền
vững, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân.
Sự biến động về diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở nước ta từ 1975
- 1998 có thể chia làm 4 đoạn chính:
+ Từ năm 1975 - 1979: giai đoạn này diện tích gieo trồng lạc có xu thế
giảm từ 97,1 ngàn ha (1976) xuống còn 91,8 ngàn ha (1979), giảm bình quân
2,0% năm. Năng suất và sản lượng lạc giai đoạn này cũng giảm, năm 1976
năng suất đạt 10,3 tấn/ha, năm 1979 chỉ còn 8,8 tấn/ha, giảm 5,0%. Nguyên
nhân chính là thực trạng phòng trào hợp tác hoá bị sa sút, yêu cầu giải quyết
đủ lương thực cần thực trạng phong trào hợp tác hoá bị sa sút, yêu cầu giải
quyết đủ lương thực cần đặt lên hàng đầu, sản xuất lạc lúc này chủ yếu mang
tính tự cung, tự cấp nên cây lạc không được đầu tư phát triển.
12
+ Từ 1980 - 1987: Thời kỳ này diện tích trồng lạc tăng nhanh: 91,8 ngàn
ha năm 1979 lên 237,8 ngàn ha năm 1987. Tốc độ tăng trường hàng năm từ
5,6% năm đến 24,8% năm. Diện tích năm 1987 tăng gấp 2 lần so với năm
1980 và sản lượng tăng 2,3 lần. Cây lạc ở giai đoạn này phát triển nhanh là do
có hiệp định xuất khẩu với Liên xô cũ và các nước Đông Âu, đồng thời trong
nông nghiệp bắt đầu thực hiện khoán theo chỉ thị 100 TW (1981) [67], sự mở
rộng và ổn định thị trường xuất khẩu cũng như chính sách đổi mới trong sản
xuất nông nghiệp đã khuyến khích nông dân khai hoang, tăng vụ, từ đó diện
tích gieo trồng nói chung và diện tích trồng lạc nói riêng được mở rộng. Mặc
dù diện tích gieo trồng tăng lên nhanh chóng, nhưng năng suất không tăng,
chỉ dao động từ 8,8 đến 9,7 tạ/ha. Sản xuất lạc lúc này còn mang tính quảng
canh truyền thống.
+ Từ 1988 - 1993: Ba năm đầu, diện tích trồng lạc giảm, từ 23,7 ngàn ha
(1987) xuống còn 201,4 ngàn ha (1989), giảm với tốc độ 2,0% năm và sau đó
phục hồi trở lại. Nguyên nhân chủ yếu là do mất thị trường tiêu thụ truyền
thống, thị trường mới chưa kịp tiếp cận, giá lạc thế giới giảm trong hai năm
1988 - 1989 (Ngô Thế Dân và các tác giả, 2000) [33].
+ Từ năm 1994 - 1998: Giai đoạn này, diện tích trồng lạc năm 1998 tăng
8% so với năm 1994 và sản lượng tăng nhanh (25%). Tốc độ tăng trưởng sản
lượng lạc giai đoạn này chủ yếu là nhờ có sự tăng trưởng nhảy vọt về năng
suất (20%). Bên cạnh đó, chúng ta đã tiếp cận được với thị trường Quốc tế
mới và nhu cầu cho chế biến trong nước cũng tăng lên. (Ngô Thế Dân và các
tác giả, 2000) [33].
Ở Việt Nam, từ Những năm 1980 sản xuất lạc có chiều hướng phát triển
ngày càng tăng. Trong 10 năm từ 1981 - 1990, diện tích tăng bình quân
7%/năm, sản lượng tăng 9%/năm. Từ năm 1990 - 1995, sản xuất lạc tăng về
diện tích và sản lượng song năng suất lạc vẫn còn thấp, chỉ đạt 1tấn/ha.
Những năm gần đây (1996 - 1998) diện tích và sản lượng lạc tăng rõ rệt,
13
năng suất đạt gần 1,5 tấn/ha. Một trong những yếu tố quan trọng nhất góp
phần nâng cao năng suất lạc là do áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật mới (Ngô
Thế Dân và các tác giả, 200) [33].
Hiện nay ở nước ta lạc chủ yếu phân bố ở bốn vùng lớn: Miền núi trung
du Bắc Bộ, Đồng bằng Sông Hồng, Khu Bốn cũ và Miền Đông Nam Bộ. Cả
bốn vùng này chiếm 3/4 diện tích và sản lượng của cả nước, số còn lại nằm
rải rác ở một số vùng khác.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
Năm Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2000 244,9 1,45 355,1
2001 244,6 1,48 362,0
2002 246,7 1,62 399,6
2003 243,8 1,67 407,1
2004 258,7 1,74 450,1
2005 260,0 1,74 452,4
( Nguồn: FAOSTAT, 2006)
Qua số liệu ở bảng 2 ta thấy diện tích trồng lạc những năm gần đây có
tăng nhưng không nhiều, đặc biệt giảm vào các năm 2002, 2003. Đến năm
2005 diện tích tăng lên đạt 260.000ha với sản lượng đạt 453.000 tấn.
Trong những năm từ 2002-2005 năng suất lạc hầu như không tăng hoặc
tăng không đáng kể. Tuy năng suất lạc có tăng nhưng nhìn chung so với tiềm
năng của đất đai, của các giống lạc hiện nay thì năng suất của nước ta còn thấp,
năng suất bình quân trên cả nước tính hết niên vụ năm 2005 đạt 17,4 tạ/ha.
2.2.3.Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế
Trong những năm gần đây, Ở một số địa phương của tỉnh Thừa Thiên
Huế cây lạc được coi là cây trồng chủ lực có hiệu quả kinh tế cao và ổn định
hơn so với các cây trồng khác. Nông dân đã từng bước trồng lạc để thay thế
cho các cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy đã góp phần làm cho diện
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét