Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát

chuyến diễn ra phổ biến, Trong xã hội xuất hiện tình trạng đầu cơ tích trữ,
dẫn tới khan hiếm hàng hoá . Điều đó lại làm giá càng tăng, và xã hội rơi
vào vòng luẩn quẩn, lạm phát càng tăng dẫn tới mất ổn định về chính trị xã
hội. Tỷ lệ lạm phát cao còn có ảnh hởng xấu tới quan hệ kinh tế quốc tế.
Tóm lại khi lạm phát cao tới mức hai con số (ở Việt nam giữa những năm 80
đã xảy ra tình trạng lạm phát tới mức 3 con số) trở lên, thì có ảnh hởng xấu
tới xã hội. Do đó chính phủ phải có giải pháp khắc phục, kiềm chế, và kiểm
soát lạm phát. Có rất nhiều giải pháp để kiểm soát lạm phát nhng ở đề tài
này tôi chỉ nêu ra giải pháp sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát.
3. Khái niệm về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách
kinh tế của nhà nớc để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm
đạt đợc các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể đợc hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông th-
ờng. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ
khối lợng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn
của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt đợc mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ,
giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông
thờng là chính sách quan tâm đến khối lợng tiền cung ứng tăng thêm trong
thời kỳ tới (thờng là một năm) phù hợp với mức tăng trởng kinh tế dự kiến và
chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả
hàng hoá .
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu nh chính sách tài chính chỉ tập
trung vào thành phần. Kết cấu các mức chi phí thuế khoá của nhà nớc, thì
chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ khả năng thanh toán cho
toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng khối lợng tần cung ứng cho lu
thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lợng tín dụng đáp ứng vốn cho nền
kinh tế , tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trờng tiền tệ, thị trờng
vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hệ thống các ngân hàng thơng
mại, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy
kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thơng nhằm mục tiêu cuối cùng là ổn định
tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá .
Chính vì vậy chính sách tiến tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là
giải pháp khá hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát.
5
4. Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm
phát.
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm
hiểu từng công cụ một của chính sách tiền tệ.
4.1. Dự trũ bắt buộc.
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thơng mại có
khả năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới
cho cả hệ thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền.
Để khống chế khả năng này, ngân hàng trung ơng buộc các ngân hàng thơng
mại phải trích một phần tiền huy động đợc theo một tỷ lệ quy định gửi vào
ngân hàng trung ơng không đợc hởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công
cụ dự trữ bắt buộc nhằm khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội
số tín dụng của các ngân hàng thơng mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lợng phong tiện thanh toán cần
khống chế (bị "vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm
điều chỉnh khả năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng th-
ơng mại.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả
năng cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số
nhân tiền tệ giảm), khối lợng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền
giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu t giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá
giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngợc lại nếu ngân hàng trung ơng hạ thấp tỷ lệ
dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các
ngân hàng thơng mại cũng tăng lên, khối lợng tín dụng và khối lợng thanh
toán có xu hớng tăng, đồng thời tăng xu hớng mở rộng khối lợng tiền. Lý
luận tơng tự nh trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát
tăng). Nh vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy
quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động
kinh tế trong trờng hợp nền kinh tế phát triển cha ổn định và khi các công cụ
thị trờng mở tái chiết khấu cha đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức
cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì
chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lợng tiền tăng
lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công
cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ nh việc tăng dự trữ bắt buộc
6
có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có
dự trữ vợt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng
gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng
công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát
ít đọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nớc phát triển , có nền kinh tế
ổn định)
4.2. Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phơng thức để ngân hàng trung ơng đa tiền vào lu
thông, thực hiện vai trò ngời cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết
khấu, ngân hàng trung ơng đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân
hàng thơng mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái
chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ơng, tăng khối lợng tiền tệ vào lu
thông. Do đó ảnh hởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lợng tiền và
điều hành chính sách tiền tệ. Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc
yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực
hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín dụng mà ngân hàng trung ơng
quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ
phải có tác dụng hớng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của
giai đoạn đó. Khi ngân hàng trung ơng nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các
ngân hàng thơng mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không
bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo
giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu t
giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Tr-
ờng hợp ngợc lại tức là ngân hàng trung ơng kích thích tăng cung cầu tiền tệ
và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng). ở các nớc công cụ nghiệp vụ trực
tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thơng phiếu, hoặc các loại tín phiếu là
những công cụ rất thông dụng trên thị trờng tiền tệ và thị trờng vốn nhng ở n-
ớc ta cha có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết
khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng
thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lợng tín dụng cho nền kinh tế. Cho
nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy.
Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tợng thiểu
phát. Và bơm hút vào thu hồi lợng tiền khi nền kinh tế có hiện tợng lạm
phát.
7
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ
xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trờng và lãi
suất chiết khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn
đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lợng cho vay chiết khấu và do đó
thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất
vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát
lạm phát.
4.3. Hoạt động thị trờng mở.
Nếu nh công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW,
tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đa thơng phiếu, kỳ phiếu đến
để xin "tái cấp vốn" thì nghiệp vụ thị trờng mở là công cụ chủ động của ngân
hàng trung ơng để điều khiển khối lợng tiền, qua đó đã kiểm soát đợc lạm
phát.
Qua nghiệp vụ thị trờng mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ơng
vào lu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lu thông bằng cách mua bán các loại trái
phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trớc hết đến khối lợng tiền dự trữ
trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng
tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lợng
tiền trong thị trờng tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trớc đã biết rằng
khối lợng tiền tệ ảnh hởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung
tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trờng mở, ngân hàng trung ơng điều khiển cả khối
lợng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua và bán trái phiếu. Tất
cả những cuộc can thiệp vào khối lợng tiền bằng công cụ thị trờng mở đều đ-
ợc tiến hành dờng nh là lặng lẽ và vô hình, "không can thiệp thô bạo", điều
khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Một mặt nghiệp vụ
thị trờng mở có thể dễ dàng đảo ngợc lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến
hành nghiệp vụ thị trờng mở, nh khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá
nhanh ngân hàng thơng mại có thể lập tức đảo ngợc lại bằng cách bán trái
phiếu hoặc mua trái phiếu và ngợc lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và đợc coi là vũ
khí sắc bén nhất đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói
riêng.
8
Nhng ở nớc ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này
đòi hỏi phải có môi trờng pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3
con số, Việt nam đã áp dụng chính sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất
nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát ở Việt nam). Chúng
ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát nh thế nào.
4.4. Lãi suất.
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó đợc áp
dụng nhất quán trong một lãnh thổ và đợc ngân hàng nhà nớc điều hành chặt
chẽ và mềm dẻo tuỳ theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động
vốn và cung ứng vốn. Nh vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm
thay đổi cầu tiền tệ trong dân c, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi
có lạm phát. Ngân hàng nhà nớc sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế ngời
dân và các công ty sẽ đầu t vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi
hơn là đầu t vào sản xuất kinh doanh. Nh vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu t
giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhng chúng ta biết rằng i
n
= i
i
+ i
r
trong đó i
n
là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, i
l
: tỷ lệ lãi suất thực tế và i
i
là tỷ lệ
lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính
là việc tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì
lãi suất thực dơng) qua đó mới tạo đợc cầu tiền danh nghĩa tơng ứng với cầu
tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên đợc nhiều ngời
gửi tiền vào NHTM và ngợc lại. NHTM mua tín phiếu NHNN với lãi suất
kinh doanh có lãi thì sẽ giảm đợc khối lợng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho
vay) cao sẽ làm nản lòng ngời vay vì kinh doanh bằng vốn vay NHTM
không có lợi nhuận. Nh vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm
khối lợng tín dụng của NHTM để đạt đợc mục đích của chính sách tiền tệ
(ổn định tỷ lệ lạm phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất đợc áp
dụng thành công trong việc chống lạm phát. ở Việt nam đã áp dụng rất
thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong việc
giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nớc
ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhng cha mở hẳn, do đó chỉ có tác
động trong nớc đầu t bằng Việt nam đồng chứ quốc tế ít đầu t vào. Chính vì
thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao
để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong
nớc và lãi suất nớc ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ
9
điển, các nớc ngày càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn cũng nh cung cấp vốn.
4.5. Hạn mức tín dụng:
Ngoài những công cụ cơ bản trên, ngân hàng nhà nớc còn sử dụng công
cụ hạn mức tín dụng để điều hành, làm cho khối lợng tín dụng đối với
NHTM không vợt quá mức cho phép để từ đó bảo đảm mức lạm phát đã đợc
phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lợng tín dụng tối đa mà NHTW có thể
cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức
tăng trởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến
khối lợng tiền trung ơng đợc cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các
NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm, dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu
t giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá giảm. Với mục tiêu ổn
định đồng tiền và chống lạm phát đợc coi là mục tiêu số 1, thì công cụ hạn
mức tín dụng là cần thiết. Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng
là vấn đề khó khăn không nhỏ cho các ngân hàng thơng mại. Tiền gửi của
nhân dân không thể không thu nhận hàng ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi
mà không đợc cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà không có đầu ra.
Nh vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác
định hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát.
Song nó cũng có những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những
giải pháp để khắc phục những khó khăn đó.
II/ Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính
sách tiền tệ nhằm kiểm soát Lạm phát những năm qua
ở Việt Nam.
1. Dự trữ bắt buộc
Tại điều 45 pháp lệnh ngân hàng nhà nớc đã quy định "NHNN quy định
tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn
bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trờng hợp cần thiết hội đồng quản
trị ngân hàng nhà nớc quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN
trả lãi mức tăng đó. Trên thực tế công cụ này đợc bắt đầu sử dụng từ cuối
năm 1989 với tổng số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm
1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn đợc thực hiện theo mức 10% tính
trên số tiền gửi của khách hàng.
10
Trong thời gian đầu, tuy pháp lệnh ngân hàng đã quy định nh trên nhng
thực tế trong một thời gian dài, tỷ lệ 10% đợc ổn định một cách cố định, mặc
dù chính sách tín dụng từ năm 1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác
nhau theo chủ trơng lúc thì thắt chặt, lúc thì nới lỏng (nhằm kiểm soát lạm
phát). Nghĩa là việc thực hiện đa tiền vào lu thông điều khiển khối lợng tiền
lu thông luôn đợc thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công
cụ khác nhau. Nhng công cụ dự trữ bắt buộc vẫn đợc thực hiện với một tỷ lệ
cố định.
Đầu năm 1994, Ngân hàng trung ơng đã có quy định bổ sung : tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi
là 7% nhng cũng là để thi hành cho một thời gian dài. Sự ổn định nh vậy đã
nói lên rằng, ở nớc ta vào thời kỳ này mới bớc đầu sử dụng công cụ này , nên
cha có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn
biến động trong lu thông, nên cha thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối l-
ợng tiền lu thông hạn chế bội số tín dụng của các NHTM nh chức năng vốn
có của công cụ này. Đặc biệt ở năm 1991-1992 các ngân hàng quốc doanh
ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định còn có một lợng vốn tiền gửi khá
lớn taị NHTW. Điều này trong một chừng mực nhất định đã vô hiệu hoá
công cụ dự trữ bắt buộc vì nh vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thì hầu nh cũng chẳng ảnh hởng gì đến khả năng thanh toán và khối l-
ợng tín dụng cung ứng. Mặt khác một số vấn đề tồn tại về mặt nghiệp vụ và
tổ chức thực hiện dự trữ bắt buộc đã giảm tính chất nhaỵ cảm của công cụ.
Tuy nhiên, thời gian qua NHNN cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt
buộc nhằm mục tiêu góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ và đã đạt đợc một số kết quả nhất định trong việc kiểm soát lạm phát ở
mức thấp. Đến nay để chuẩn bị cho luật NHNN có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 1/10/1998, vấn đề cần đặt ra là phải nghiên cứu nội dung của luật
NHNN nhằm đa ra quy chế dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ giai đoạn mới trong đó mục tiêu ổn định và phát triển kinh
tế cũng nh kiểm soát lạm phát là quan trọng nhất.
2. Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành
khối lợng tiền tệ và đã đợc nhà nớc cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp
lệnh NHNN Việt Nam. Nhng trong thực tế ở nớc ta những năm qua do thừa
hởng tiềm thế của một nền lu thông trong đó không đợc phép tồn tại tín dụng
11
thơng mại, vì vậy cha có các công cụ truyền thống trực tiếp để thực hiện việc
chiết khấu và tái chiết khấu nh các loại kỳ phiếu, thơng phiếu Luật thơng
mại nớc ta mới đợc công bố và từ ngày 1-1-1998 mới có giá trị thi hành, bởi
vậy nghiệp vụ chiết khấu thơng phiếu của NHTM cha đợc quy định. Do đó
việc tái chiết khấu đợc thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã
cho vay, nhng cha đến hạn các doanh nghiệp phải trả nợ lãi. Căn cứ vào
chứng từ đó NHNN cho các NHTM vay lại những khoản nợ mà các NHTM
đã cho các doanh nghiệp vay. Một mặt NHTW còn thực hiện phơng thức
"mua lại" các dự án đã đợc các ngân hàng thẩm định trớc khi đầu t nhng
NHTM không đủ vốn. Trong thời gian qua do cha có những công cụ nghiệp
vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái chiết khấu nên ngân hàng nhà nớc Việt
Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này đợc thực hiện
bằng cách, các NHTM và các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có
giá trị đến NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải
quyết khó khăn tài chính tạm thời cho các NHTM. Hình thức mua lại các dự
án đầu t tái cấp vốn theo hình thức cho vay thế chấp một thời gian dài là
công cụ thay thế cho thơng phiếu và kỳ phiếu . Những hạn chế của công cụ
tái chiết khấu ở nớc ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu
chuyển sang kinh tế thị trờng . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của
chính sách tiền tệ công cụ tái chiết khấu (cha hoàn thiện) đã góp phần đa tỷ
lệ lạm phát ở nớc ta từ mức 2 con số ở các năm trớc xuống mức 1 con số ở
năm 1993.
3. Hoạt động thị trờng mở
Đây là một trong những công cụ quan trọng đợc NHTW các nớc sử
dụng để điều hành có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thậm chí một số ngân
hàng coi đây là công cụ sắc bén nhất trong các hoạt động của mình.
Nhng ở Việt Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp gồm suốt 4 thập kỷ qua, phù hợp với cơ chế đó NHNN Việt
Nam không thể sử dụng các công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, thị trờng mở,
lãi suất tái chiết khấu) để điều hành chính sách tiền tệ. Công cụ đó chỉ có thể
và trên thực tế bớc đầu đã phát huy tác dụng khi hệ thống NHVN đã thực sự
đổi mới. Điều 21 luật NHNN Việt nam đợc quốc hội nớc CHXHCN Việt
nam khoá 10 kỳ họp thứ 2 thông qua quy định "NHNN thực hiện nghiệp vụ
thị trờng mở thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi,
tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trờng tiền
12
tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Quy định trên về mặt phơng diện
pháp lý luật NHNN Việt Nam đã mở ra cho công cụ thị trờng mở một lối đi
khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Trên thực tế ở Việt
Nam từ năm 1996 đã có những đợt hoạt động của các thị trờng đấu thầu tín
phiếu kho bạc, ngoại tệ bên ngân hàng. Trong đó năm 1996 là 19 đợt, năm
1997 là 35 đợt đấu thầu trái phiếu, khối lợng trúng thầu là 2912,5 tỷ đồng
trong đó các công ty bảo hiểm mua 828 tỷ đồng, án tổ chức tín dụng mua
2.084,5 tỷ đồng. Điều này cho thấy vốn nằm trong các định chế tài chính
còn khá nhiều nhng cho vay ra có nhiều rủi ro. Các định chế tài chính quay
trở lại mua tín phiếu kho bạc để đảm bảo an toàn và chống lỗ. Tuy nhiên do
thị trờng đấu thầu chỉ bán tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm nên không
tạo ra công cụ tiền tệ để thúc đẩy sự ra đời của hoạt động thị trờng mở của
NHTW. Năm 1998 NHNN phối hợp với bộ tài chính tiếp tục phát hành th-
ờng xuyên trái phiếu kho bạc, số d trái phiếu đến cuối tháng 9/1998là 3478,7
tỷ đồng. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều kiện để đa thị trờng mở vào
hoạt động là cha chín muồi, và cha thực sự trở thành công cụ theo đúng
nghĩa của nó. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trờng mở là yếu tố tác
động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay
đổi cơ sở tiền tệ trên thị trờng. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong
việc kiểm soát lạm phát. Do đó việc chính phủ tìm những giải pháp để mau
chóng đa thị trờng mở hoạt động một cách đầy đủ là vô cùng quan trọng và
cấp thiết.
4. Lãi suất
Trớc năm 1933, hệ thống ngân hàng ở Việt nam là hệ thống ngân hàng
một cấp, về thực chất nó là một bộ phận của ngân sách nhà nớc. Mối quan
hệ của ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng là hạn chế :
khi ngân sách nhà nớc thâm hụt, các ngân hàng phát hành thêm tiền để bù
đắp. Khi các DNNN thiếu vốn thì ngân hàng phát hành tiền cho vay tín
dụng. Vì vậy dẫn tới lạm phát trầm trọng tới mức 3 con số (trong thời kỳ này
ngân hàng đã áp dụng chính sách lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi
và nhỏ hơn tốc độ trợt giá. Đây là sự bất hợp lý, cho nên không huy động đ-
ợc vốn trong dân và làm cho hệ thống ngân hàng tê liệt) Tháng 3 năm 1988,
đánh dấu bớc ngoặt cơ bản trong chính sách tiền tệ ở Việt nam bằng nghị
định 53 và tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nớc và ngân hàng HTX tín dụng và công ty tài chính. Sự
13
hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp cùng với việc áp dụng chính sách lãi
suất đã góp phần rất cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát những năm sau đó.
Vào đầu năm 1989, chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản
chính sách lãi suất. Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989của HĐBT đa ra
các nguyên tắc cơ bản để xác định lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN.
Các nguyên tắc đó là:
- Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế và đợc điều
chỉnh theo sự biến động của chỉ soó giá cả trên thị trờng xã hội.
- Mọi nguồn vốn mà ngân hàng huy động để cho vay đều đợc hởng lãi,
mọi khoản vốn ngân hàng cho vay đều phải thu lãi.
- Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,6%
tháng.
- Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi và cho vay phải bao gồm lãi suất cơ bản
(lãi suất thực dơng) và chỉ số trợt giá của thị trờng xã hội.
Cụ thể từ giữa tháng 3-1989 đã đa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn
chỉ số lạm phát hàng tháng. Tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng
hơn 7,4% và 4,2% nhng lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng và
không có kỳ hạn đã đợc mạnh dạn đa lên 12% và 9% mỗi tháng . Biện pháp
lãi suất thực dơng này lần đầu tiên đợc thực thi đã phá vỡ sự trì trệ của các
kênh thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính
sách lãi suất cần ổn định từ năm 1985 đến quý I năm 1989. Số d tiền tiết
kiệm tăng lên nhanh chóng ngay tháng đầu, quý đầu. áp dụng chính sách này
ngay lần đầu đã giảm lạm phát một cách nhanh chóng (cũng bất lợi và khó
khăn đó là chỉ 3 tháng sau đã trở thành thiểu phát. Tháng 6/1992. NHNN đã
điều chỉnh lãi suất theo hớng :
- Đảm bảo lãi suất dơng, tức là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất
huy động bình quân.
- NHNN chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền
gửi tối thiểu, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM quyết định.
- Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi suất phân biệt theo thành phần kinh tế
cũng nh theo các loại hình doanh nghiệp , thực hiện chính sách lãi suất bình
đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế .
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét