Tiểu luận 1:
Đề tài:
Người làm:
1
Lời mở đầu
Thập kỷ mới được mô tả như là thời điểm mà tại đó các nền kinh tế mới nổi
lớn nhất bắt kịp và chuẩn bị vượt qua các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Nổi bật
hơn cả là hai quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ khi mà sự tăng trưởng ấn tượng của
họ đang là tâm điểm theo dõi của toàn cầu. Sự tăng trưởng cùng với sự lớn mạnh
trong mạng lưới thương mại và quan hệ đầu tư đang tạo ra những thay đổi lớn
trong nền kinh tế thế giới. Nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu và đưa ra nhận
định cho rằng, hai nền kinh tế này sẽ trở thành siêu cường kinh tế vào năm 2020.
Khi đó một trật tự kinh tế mới sẽ được thiết lập, làm thay đổi cục diện phân chia
như hiện nay và tác động tới không chỉ những quốc gia có nền kinh tế lớn mạnh
mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới những nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt
Nam.
Dự báo thế kỷ XXI được coi là kỷ nguyên châu Á – Thái Bình Dương. Sự
trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ cùng với Mỹ được xem là những nhân
tố quan trọng hàng đầu để nói đến điều đó. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, châu Á – Thái Bình Dương được Liên hợp quốc đánh giá là khu vực dẫn đầu
thế giới về phục hồi kinh tế. Hiện dân số ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới; châu Á – Thái Bình Dương là khu vực có trữ
lượng dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự trỗi dậy kinh tế của nhiều nước
(Trung Quốc, Ấn Độ…). Đây là hai quốc gia có số dân đông nhất thế giới và là
những nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, tất yếu có vị thế chính trị lớn trong việc giải
quyết các vấn đề cấp thiết của cộng đồng quốc tế
Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng đi phân tích những điểm nổi bật trong
nền kinh tế hai quốc gia này và sự tác động tới nền kinh tế Việt Nam nói riêng
cũng như nền kinh tế thế giới nói chung.
2
Mục đích nghiên cứu
Qua sự tìm hiểu về hai quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ chúng ta sẽ thấy được quá trình
phát triển và đặc biệt là sự “nổi dậy” của hai nền kinh tế đó. Tìm ra được nguyên nhân của
sự tăng trưởng ấy và những mặt tiêu cực và tích cực đi kèm theo đó.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng sẽ thấy được sự tác động của hai nền kinh tế trên tới các nước
trong khu vực và nền kinh tế trên thế giới. Qua đó nhận ra được xu hướng dịch chuyển của
kinh tế thế giới trong tương lai tới đây.
Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, bài tiểu luận sẽ đưa ra những tác động của sự tăng
trưởng kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ tới Việt Nam. Từ đó rút ra được những bài học kinh
nghiệm quý báu cho chúng ta, để định hướng những bước phát triển tiếp theocủa nước nhà.
Mục lục
I. Tổng quan về sự phát triển của hai quốc gia Trung Quốc và Ấn Độ trong thời gian
qua.
1. Trung Quốc
2. Ấn Độ
II. Đánh giá sự tác động của tăng trưởng Trung Quốc và Ấn Độ lên nền kinh tế thế giới
1.Tác động vào các tập đoàn lớn trên thế giới
2. Quan hệ hai nước trong tổ chức WTO và quan hệ với Hoa Kỳ
3.Đánh giá sự phát triển của hai quốc gia và những tác động đi kèm
III. Tác động của sự phát triển của hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ lên Việt Nam và
bài học kinh nghiệp cho Việt Nam.
1. Tác động của sự phát triển của hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ lên Việt
Nam
2. Bài học dành cho Việt Nam trước ngưỡng cửa phát triển
IV. Kết luận
3
Nội dung
I. Tổng quan về sự phát triển của hai quốc gia Trung Quốc và
Ấn Độ trong thời gian qua.
1. TRUNG QUỐC
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, Trung Quốc là một quốc gia hùng
mạnh. Bởi lẽ trong thời kỳ phong kiến, khi mà chưa có sự phát triển của Công
nghiệp, thợ thủ công và nông dân đã là nguồn chủ yếu của sự đổi mới. Với dân số
lớn nhất trên thế giới, Trung Quốc đã là một nước dẫn đầu trong đổi mới công nghệ
và phát triển kinh tế suốt hầu hết lịch sử của mình bởi vì nó đã có một khối lượng
lớn các thợ thủ công và nông dân.
Khi chuyển đổi thị trường của Trung Quốc bắt đầu năm 1979, Đặng Tiểu
Bình đã chấp nhận một cách tiếp cận thực dụng, hai-tuyến, hơn là theo công thức
“Đồng thuận Washington” về tư nhân hóa nhanh và tự do hóa thương mại. Một
mặt, chính phủ đã tiếp tục tạo sự bảo hộ quá độ cho các hãng của các khu vực ưu
tiên; mặt khác, nó đã tự do hóa toàn bộ các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các khu vực thâm dụng-lao động phù hợp với lợi thế so sánh
của Trung Quốc mà lợi thế đó đã bị kìm hãm trong quá khứ.
Cách tiếp cận này đã cho phép Trung Quốc đạt đồng thời sự ổn định và tăng trưởng
năng động. Quả thực, các lợi ích của sự lạc hậu đã thật ngoạn mục: sự tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm 9.9% và sự tăng trưởng thương mại hàng năm 16.3%
trong suốt 32 năm qua – một thành tích xuất sắc chứa đựng các bài học đáng giá
cho các nước đang phát triển. Bây giờ Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn nhất thế
giới và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và hơn 600 triệu người đã được kéo ra
khỏi cảnh nghèo nàn.
4
Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
(giai đoạn 1995-2010)
Cơ cấu xuất nhập khẩu của Trung Quốc giai đoạn 1998-2003
5
2. ẤN ĐỘ
Ấn Độ là một quốc gia có lịch sử phát triển từ rất lâu đời với nền văn minh sông
Hằng nổi tiếng thế giới. Nằm trong khu vực Nam Á, Ấn Độ được coi là nền kinh tế
lớn nhất chiếm đến 79% GDP của cả khu vực. Sau khi giành được độc lập năm
1947, Ấn Độ xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường trên cơ sở kế hoạch hóa.
Cuối những năm 1980, Ấn Độ lâm vào khủng hoảng kinh tế. Từ năm 1991, nước
này tiến hành cải cách kinh tế toàn diện và sâu rộng theo hướng tự do hóa và mở
cửa, tích cực hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, trong đó chú trọng cải cách
cơ cấu, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính, ngân hàng, nâng cấp cơ sở hạ
tầng và tăng đầu tư vào những khu vực có khả năng tạo nhiều việc làm, phi đầu tư
hóa các cơ sở hoạt động kém hiệu quả.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ trong một thập kỷ vừa qua là khoảng trên
6%/năm. Năm 2008-2009, GDP tăng 6,7%, dự kiến năm 2009-2010 tăng 6,5-7%.
Một số chỉ số kinh tế của Ấn Độ
Các chỉ số Đơn vị tính
2003
-2004
2004
-2005
2005
-2006
2006
-2007
2007
-2008
2008
-2009
Mức tăng GDP
Tỷ lệ tiết kiệm
%
%
8,5
29,8
7,5
31,7
9,5
34,2
9,7
35,7
9,0
37,7
6,7
-
Sản xuất
- Lương thực
- Chỉ số Công nghiệp
- Phát điện
Triệu tấn
%
%
213,2
7,0
5,1
198,4
8,4
5,1
208,6
8,2
5,2
217,3
11,6
7,3
230,8
8,5
6,3
229,9
2,6
2,7
Giá cả
- Lạm phát (WPI)
- Lạm phát (CPI)
%
%
5,5
3,9
6,5
3,8
4,4
4,4
5,4
6,7
4,7
6,2
8,4
9,1
Ngoại thương
- Xuất khẩu
- Nhập khẩu
- Dự trữ ngoại tệ
%
%
Tỷ $
21,1
27,3
113,0
30,8
42,7
141,5
23,4
33,8
151,6
22,6
24,5
199,2
28,9
35,4
309,7
3,6
14,4
252,0
Nguồn: Bộ Tài chính Ấn Độ
Khác với Trung Quốc, tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ không lệ thuộc quá lớn vào
công nghiệp cũng như xuất khẩu mà phụ thuộc phần quan trọng vào lĩnh vực dịch
vụ. Nhờ những lợi thế này, Ấn Độ đang trở thành quốc gia thu hút sự chú ý của
giới kinh doanh toàn cầu.
6
II. Đánh giá tác động của sự tăng trưởng của Trung Quốc và
Ấn Độ lên nền kinh tế thế giới
1. Tác động vào các tập đoàn lớn trên thế giới
Châu Á đang chuyển mình và thay đổi. Điều này có nghĩa các công ty đa
quốc gia phương Tây kinh doanh tại đây cũng phải thay đổi tư duy chiến lược của
họ. Rất nhiều công ty đa quốc gia, các tập đoàn phương tây đã có sự khởi đầu
thuận lợi tại châu Á, thu được lợi nhuận từ hoạt động liên kết xuyên biên giới.
Công ty đa quốc gia sẵn có tầm với toàn cầu có thể vươn rộng ra toàn khu vực
thông qua việc thành lập các chi nhánh. Họ cũng có những kinh nghiệm trong việc
thích nghi với điều kiện riêng của châu Á. Song, một thực tế là: sự hiện diện của
nhiều công ty đa quốc gia tại châu Á giờ đây chỉ phù hợp với môi trường cạnh
tranh trong quá khứ, không còn hợp với bối cảnh mới, nhất là khi một thế hệ công
ty đa quốc gia đang được hình thành ngay tại châu Á. Trong khi đó, cùng với sự
mở cửa và các chính sách linh hoạt, sáng tạo của mình, các công ty của Trung
Quốc và Ấn Độ đang dần vươn ra tầm thế giới.
Cụ thể, PetroChina- tập đoàn dầu mỏ quốc gia Trung Quốc vừa trở thành tập
đoàn lớn nhất thế giới khi vượt trội các đối thủ phương Tây. Giới đầu cơ tại
Thượng Hải cho hay, cổ phiếu của PetroChina vừa tăng thêm 3%, lên mức 336 tỷ
USD vào sáng ngày hôm qua. Thành tích này đưa PetroChina dẫn đầu danh sách
những tập đoàn đắt giá hàng đầu thế giới. Hơn nữa, viễn cảnh lâu dài đối với các
công ty năng lượng của Trung Quốc là tăng trưởng và chắc chắn sẽ tăng trưởng
nhiều hơn Mỹ và các khu vực khác. Đây cũng là lý do chính đáng để đưa
PetroChina đi lên.
Còn đối với Ấn Độ, Chính phủ đất nước Nam Á này đang đẩy mạnh hợp tác
khoa học và công nghệ như là hai công cụ giúp đem lại công bằng xã hội và phát
triển kinh tế hiện thực hóa ước mơ trở thành nước phát triển vào năm 2020. Thành
phố Bangalore-Ấn Độ giờ đây đã mang bộ mặt hoàn toàn mới so với hơn chục năm
về trước. Thành phố lớn nhất nhì này của Ấn Độ được thế giới biết đến với một cái
tên khác “Thung lũng Silicon thứ hai”. Hiện có hơn 150 công ty đa quốc gia đang
tiến hành các hoạt động Nghiên cứu và Phát triển ở Ấn Độ, đa phần những công ty
này đến từ Mỹ và châu Âu. Theo một thông báo gần đây, khoảng 25% nguồn đầu
tư toàn cầu của các công ty đa quốc gia đang đổ vào Ấn Độ. Nguyên nhân chính
bởi Ấn Độ có một nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ hùng hậu, thạo
chuyên môn giỏi tay nghề, sử dụng tiếng Anh tốt. Hơn nữa, giá thuê nhân công ở
đây tương đối rẻ. Chính điều này làm cho nhiều người Ấn Độ dễ dàng nhận được
các chương trình đào tạo từ những công ty đa quốc gia này và có cơ hội lũy kinh
7
nghiệm ở nước ngoài. Những người này sẽ trở về Ấn Độ, làm việc cho chính
những công ty đó, và đây chính là một sự “hồi hương chất xám” thầm lặng.
Từ đó có thể thấy rằng, Trung Quốc và Ấn Độ bằng những chiến lược
cạnh tranh và phát triển thông minh, không những đem lại lợi ích cho quốc
gia mình mà còn tăng cường vị thế của mình trên thế giới, đưa họ trở thành
những cường quốc hùng mạnh.
2. Quan hệ hai nước trong tổ chức WTO và quan hệ với Hoa Kỳ
a.WTO:
Trung Quốc: Ngày 10/12/2001, tại Doha, Qata, Hội nghị lần thứ 4 cấp Bộ
trưởng các nước thành viên của WTO đã nhất trí thông qua quyết định về việc
Trung Quốc gia nhập WTO. 30 ngày sau, quốc gia này chính thức trở thành thành
viên WTO sau 15 năm chuẩn bị. Và sau hơn 10 năm, vị thế của Trung Quốc ngày
càng được thể hiện rõ trong WTO
Trở thành nước xuất khẩu lớn nhất và nhập khẩu thứ nhì thế giới
Trở thành thành viên nòng cốt trong hệ thống thương mại đa phương thế giới
Gỡ bỏ hạn chế về ngoại thương
Thực hiên đúng cam kế về khu vực thuế quan và phi thuế quan
Vượt Nhật Bản để trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới
An toàn với khủng hoảng
Thống nhất thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty trong và ngoài nước
Tranh chấp thương mại với Mỹ để bảo vệ lợi ích
8
(So sánh xuất khẩu sang các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan của 2 quốc gia Trung Quốc và
Hoa Kỳ cho thấy được TQ đang dần trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới.)
Ấn Độ: Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã đóng vai trò có tầm ảnh hưởng
lớn tạiASEAN, SAARC và WTO, và họ là phía đã mang lại bước ngoặt quan trọng
cho Thỏa thuận tự do thương mại Nam Á. Ấn Độ từ lâu đã là nước ủng hộ Liên
hiệp quốc, với hơn 55.000 quân thuộc quân đội Ấn Độ và nhân viên cảnh sát từng
phục vụ trong 35 chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc tại bốn châu lục.
b. Mối quan hệ với nước có nền kinh tế đứng đầu thế giới-Mỹ
Ấn Độ: Đồng minh chiến lược thực tế với Mỹ
Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh thăm Washington tháng 7/2005 khởi
đầu cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Kết quả đáng kể nhất là hiệp định giữa
hai nước về hợp tác trong năng lượng hạt nhân phục vụ mục đích dân sự cho phép
chuyển đổi quan hệ đối tác chiến lược đang nổi lên giữa hai quốc gia này. Nhưng
một khung hợp tác rộng lớn đã được hai nhà lãnh đạo hai nước vạch ra trong tuyên
bố chung được xem là đỉnh cao của quá trình xác định quan hệ hai nước kéo dài
một thập kỷ, dựa trên cơ cở nhận thức ngày càng rõ lợi ích chung giữa hai nước.
Trung Quốc: Miêu tả các mối quan hệ Trung - Mỹ là các mối quan hệ song
phương quan trọng nhất cho cả hai bên.
Phía Mỹ trông chờ hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Trung Quốc về các vấn đề
lớn của khu vực và toàn cầu, Tổng thống Mỹ Obama nói rằng chính phủ Mỹ mong
9
muốn chung tay với Trung Quốc để phát triển mối quan hệ song phương tích cực
hơn. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh Trung Quốc hiểu các nỗ lực của Mỹ trong
việc bình ổn thị trường tài chính và kích thích nền kinh tế, đồng thời khẳng định
Trung Quốc muốn tăng cường hợp tác và truyền thông với Mỹ về các chính sách vĩ
mô, và kiên quyết phản đối bảo hộ đầu tư, bảo hộ thương mại.
3. Đánh giá sự phát triển của hai quốc gia và những tác động đi
kèm
Nhiều năm qua, mặc dù gặt hái nhiều thành tựu to lớn, nhiều dự đoán cho
rằng kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ sắp vượt qua Nhật Bản để đứng thứ hai thế giới,
tuy nhiên, đằng sau bức tranh kinh tế – xã hội của hai đất nước này đã bộc lộ
những khiếm khuyết đe dọa đến sự phát triển bền vững của chính họ.
Thứ nhất, mất cân đối vĩ mô nghiêm trọng
So với các nước đang phát triển cũng có ảnh hưởng tương đối lớn như
Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ có tỉ lệ công nghiệp trong GDP cao hơn nhưng lại có
tỉ lệ dịch vụ trong GDP nhỏ hơn rất nhiều. Để thúc đẩy cho sự tăng trưởng ồ ạt của
thành phần công nghiệp, Trung Quốc đã đưa ra những chính sách hỗ trợ không
những làm méo mó sự phân bổ tài nguyên kinh tế mà còn kìm hãm khả năng phát
triển của nhu cầu tiêu thụ nội địa.
Thứ hai, ô nhiễm môi trường gia tăng
Sự phát triển ồ ạt của các ngành công nghiệp đã gây ra sự tàn phá môi
trường ở phạm vi rộng lớn. Trong 30 thành phố ô nhiễm nhất thế giới thì 20 là ở
Trung Quốc. Và Trung Quốc hiện nay đã vượt qua Mỹ để trở thành nước xả khí
thải cacbon lớn nhất thế giới.
Thứ ba, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng
Hệ số Gini (một thước đo về mức độ bất bình đẳng thu thập; hệ số này đi từ
0 đến 1, với con số càng cao thì mức độ bất bình đẳng càng cao) của Trung Quốc
đã tăng liên tục trong nhiều năm qua, từ 0.257 trong năm 1990 lên đến 0.473 trong
năm 2007. So sánh với các nước khác, Trung Quốc có hệ số Gini cao hơn Ấn Độ
và các nước trong khu vực, ngoại trừ Sri Lanka.
Thứ tư, sự lão hóa dân số
Trong khi lực lượng lao động trẻ giảm xuống, số người cao niên tăng theo
nhịp điệu lũy tiến: năm 2008, Trung Quốc có 169 triệu người trên 60 tuổi (13% dân
số), dự kiến sẽ tăng lên 250 triệu trong 10 năm nữa và đến năm 2050, cứ 3 người
dân thì có 1 người già. Điều này cho thấy, lợi thế về dân số trẻ của hai quốc gia
đang có nguy cơ bị đe dọa.
Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy được mỗi sự tăng trưởng nhanh và
nóng luôn đi kèm theo những hệ lụy của nó. Và làm sao để giải quyết những vấn
đề đó cùng với việc giữ vững sự tăng trưởng ổn định của mình luôn là vấn đề
10
quan tâm hàng đầu của hai quốc gia, cũng là bài toán cho các nền kinh tế trên
thế giới.
III. Tác động của sự phát triển của hai nền kinh tế Trung Quốc
và Ấn Độ lên Việt Nam và bài học kinh nghiệp cho Việt
Nam.
1. Tác động của sự phát triển của hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn Độ
lên Việt Nam
1.1. Tác động tích cực trong đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
- Trung Quốc:
Nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-
1999), Trung Quốc mới có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư theo giấy phép là 120
triệu USD thì 10 năm sau đến tháng 12-2009 đã có 657 dự án với tổng số vốn đăng
ký là 2.673.941.942 USD. Như vậy, trong 10 năm, số dự án của Trung Quốc tại
Việt Nam đã tăng gấp hơn 8 lần, số vốn đăng ký tăng 22 lần so với 9 năm đầu sau
khi bình thường hóa, đưa Trung Quốc lên vị trí 11 trong số 43 nước và vùng lãnh
thổ đang đầu tư trực tiếp tại Việt Nam hiện nay.
Đầu tư của Trung Quốc tăng khá đều đặn qua các năm, năm 2008 tăng 125%.
Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới, cùng với xu thế
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam giảm, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam năm
2009 cũng giảm đáng kể so với các năm trước cả về số lượng dự án và vốn đăng
ký cấp mới
- Ấn Độ:
50 doanh nhân từ các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực, trong đó nhiều nhất là
công nghệ thông tin đã tới Việt Nam tìm cơ hội hợp tác, đầu tư thương mại trong
diễn đàn “Tiếng gọi Ấn Độ-India Calling” là sự mở đầu cho làn sóng đầu tư mới
của Ấn Độ vào Việt Nam.
Kết quả của chính sách hướng đông và nâng tầm quan hệ hai quốc gia đã đem lại
những hiệu quả kinh tế rực rỡ: Tốc độ tăng trưởng thương mại song phương đạt
mức khá cao. Năm 1995, kim ngạch thương mại 2 chiều chỉ vào khoảng 7,5 triệu
USD nhưng tới năm 2006 đã vươn lên con số 1 tỷ USD. Đến năm 2010, thương
mại hai chiều đã đạt hơn 2,75 tỷ USD, tăng gần 35% so với năm 2009. Trong thời
gian qua, Việt Nam đang ở thế xuất siêu vào Ấn Độ và Ấn Độ cũng đang hướng tới
việc cân bằng cán cân thương mại giữa hai quốc gia.Hoạt động thương mại Việt-
11
Ấn sẽ nhộn nhịp hơn trong những năm tới, khi mà các công ty Ấn Độ xem Việt
Nam như một trung tâm để đi tới các nước khác trong khối ASEAN.
1.2. Những hạn chế đi cùng
Trong thời gian qua, giá một loạt nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như hạt
nhựa, clinke (sản xuất xi măng), dầu mỏ, phôi thép, than coke (luyện thép), sợi dệt,
bột giấy, armoniac (sản xuất phân bón) tăng mạnh trên thị trường thế giới đều có
chung nguyên nhân là bị sức hút mạnh từ thị trường Trung Quốc. Với những quốc
gia có các sản phẩm này để xuất khẩu thì thu lợi lớn, còn với Việt Nam thì ngược
lại bởi Việt Nam phải đi nhập khẩu những nguyên liệu này phục vụ cho sản xuất.
Các mặt hàng truyền thống của Việt Nam hiện đang bị cạnh tranh mạnh. Bên
cạnh đó, với môi trường kinh doanh tốt hơn nên việc thu hút đầu tư nước ngoài của
Trung Quốc và Ấn Độ mạnh mẽ hơn. Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính
mạnh mẽ hơn Việt Nam, nhất là với các giao dịch tài khoản vãng lai, tài khoản vốn.
Điều này làm giảm phần nào lượng đầu tư vào nước ta.
Việt Nam ở cạnh Trung Quốc dễ phải hứng chịu những đợt sóng hàng kém chất
lượng và hàng tồn kho này. Bên cạnh đó do sức hút mạnh mà các tài nguyên của
Vệt Nam rất dễ chảy sang Trung Quốc như hiện tượng chảy máu quặng sắt, thiếc
trong thời gian vừa qua. Nếu chúng ta chủ yếu vẫn xuất thô và bừa bãi như hiện
nay thì những nguồn lực để phát triển các ngành sản xuất trong tương lai bị cạn
kiệt và gây nên tác động xấu với môi trường. Nói cách khác tức là chúng ta trở
thành nơi cung cấp tài nguyên, khoáng sản để phát triển Trung Quốc.
12
2. Bài học dành cho Việt Nam trước ngưỡng cửa phát triển
Từ bảng trên, ta thấy phần trăm trong tổng thu nhập của 20% hộ giàu nhất ở
Việt Nam cao hơn của Ấn Độ và thấp hơn của Trung Quốc một chút. Nếu kết hợp
với số liệu trong Bảng 1 thì có thể rút ra nhận xét rằng về mặt tốc độ tăng trưởng
kinh tế, Việt Nam xấp xỉ với Ấn Độ nhưng lại thấp hơn Trung Quốc. Còn về
phương diện phân phối thu nhập, Việt Nam khá giống Trung Quốc. Từ những đối
chiếu này, chúng ta thấy Việt Nam có thể vừa tăng trưởng cao hơn (như Trung
Quốc), đồng thời vẫn có thể tạo ra một sự phân phối bình đẳng hơn (như Ấn Độ).
Để làm được điều đó chúng ta cần rút ra cho mình kinh nghiệm từ các nước đi
trước:
Thứ nhất, trong điều kiện xuất phát từ một điểm rất thấp, đất nước muốn
chống được tụt hậu xa hơn, sớm thoát khỏi nước kém phát triển và cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì phải tăng trưởng kinh tế với tốc độ
cao và liên tục trong thời gian dài.
Thứ hai, để tăng cao và liên tục, Trung Quốc đã có tỷ lệ tích lũy rất cao,
trong khi của Việt Nam dù đã tăng lên nhưng cũng mới đạt 35%, còn thấp xa Trung
13
Quốc. Muốn tăng tích lũy thì phải tiết kiệm tiêu dùng. Đáng lưu ý, tốc độ tăng tiền
lương trong các doanh nghiệp nhà nước cao hơn tốc độ tăng của năng suất lao
động.
Thứ ba, tăng lượng vốn là quan trọng, nhưng nâng cao hiệu quả đầu tư còn
quan trọng hơn nhiều. Lượng vốn đầu tư của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc,
nhưng hệ số ICOR (suất đầu tư trên một đơn vị tăng trưởng) của Việt Nam tăng
nhanh, từ 3,4 lần năm 1995, trong 5 năm qua đã tăng lên khoảng 5 lần (nghĩa là có
1 đồng GDP tăng thêm, cần có thêm 5 đồng vốn đầu tư), cao gần gấp rưỡi của
Trung Quốc. Hệ số ICOR của Việt Nam cao chủ yếu do tình trạng lãng phí, thất
thoát và đục khoét vốn đầu tư còn rất lớn. Tình trạng tham nhũng ở Trung Quốc
diễn ra phổ biến và nghiêm trọng, nhưng việc trừng trị tham nhũng tại đây cũng rất
nghiêm. Mỗi năm có hàng nghìn quan chức bị tử hình, trong đó có những người
giữ chức vụ rất cao.
Thứ tư, trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, Trung Quốc luôn luôn ở vị
thế xuất siêu; mức xuất siêu ngày một lớn và thuộc loại nhất nhì thế giới. Việt Nam
luôn ở vị thế nhập siêu, tăng liên tục từ năm 2000 đến 2004 với mức đỉnh điểm gần
5,5 tỉ USD; năm 2005 tuy đã giảm xuống nhưng vẫn còn trên 4,5 tỉ USD.
Thứ năm, mặc dù giá thế giới cao nhưng lạm phát ở Trung Quốc thuộc loại
thấp (bình quân năm trong thời kỳ 2001 - 2005 chỉ vào khoảng 1,3%) nhờ cung
hàng hóa lớn hơn cầu, sức mua của dân cư, đặc biệt là nông dân và vùng sâu trong
nội địa còn thấp. Tỷ giá giữa đồng nhân dân tệ của Trung Quốc với USD gần như
cố định; gần đây, đồng nhân dân tệ có tăng giá hơn chút ít mặc dù Mỹ liên tục đòi
Trung Quốc tăng giá đồng nhân dân tệ mạnh hơn nhiều.
Thứ sáu, học hỏi bí quyết thành công từ Ấn Độ là đi lên từ khoa học kỹ
thuật. Do đó Việt Nam muốn đưa mình thành quốc gia hiện đại cần tập trung đầu
tư vào lĩnh vực còn mới mẻ này. Áp dụng những tiến bộ khoa học từ các nước bạn,
cải tiến, nghiên cứu tìm tòi thêm, sẽ là cú hích lớn cho Việt Nam trong những bước
phát triển tới đây.
Thứ bảy, đặt nền tảng cho sự phát triển ổn định về cả kinh tế lẫn xã hội là từ
giáo dục. Cả hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đều xác định giáo dục đại học là công
cụ chủ chốt cho phát triển kinh tế và đều nhận thức rất rõ tầm quan trọng của giáo
dục sau trung học nói chung và các trường đại học nghiên cứu nói riêng như một
công cụ trọng yếu cho việc phát triển một nền kinh tế phức tạp hơn. Mặc dù quả
bom Trung Quốc và Ấn Độ đã được cung cấp chất đốt bằng nhân công giá rẻ và
sản xuất công nghiệp rẻ tiền, nhưng tương lai của cả hai nước này sẽ phụ thuộc vào
chỗ có được một lực lượng lao động được giáo dục tốt hơn hay không
IV. Kết luận
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét