Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gia vị của của Việt Nama.pdf

Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
5
Phần lớn các mặt hàng gia vị của Việt Nam như: hạt tiêu, quế, hồi, ớt,
gừng, tỏi đều có hàm lượng tinh dầu cao, thơm ngon hơn các mặt hàng cùng
loại của các nước trong khu vực. Yếu tố này khiến nhiều khách hàng tìm đến
đặt mua nguyên liệu thô trong nhiều năm qua.
Năng suất cao:
Hiện nay, cây hồ tiêu của Việt Nam cho năng suất khá cao so với các
nước sản xuất hồ tiêu khác trên thế giới. Chẳng hạn, tại Bình Phước, Đắc lắc,
có vụ năng suất đạt từ 4-7 tấn/ha, trong khi ấn độ, nước sản xuất hồ tiêu lớn
nhất thế giới chỉ đạt khoảng 2 tấn/ha.
Người sản xuất năng động, sáng tạo:
Điều này thể hiện rõ nhất trong việc trồng cây hồ tiêu. Trước năm
2000, phần khá tốn kém trong đầu tư phát triển cây hồ tiêu ở Việt Nam là
cọc choái để các nọc tiêu leo lên (phải dùng các cây gỗ khô với chi phí 3
triệu đồng/ha), chiếm tới 60% giá thành hạt tiêu. Vài ba năm trở lại đây, các
hộ trồng tiêu đã nghiên cứu và mạnh dạn trồng các loại cây thân gỗ, mọc
thẳng như cây muồng làm choái (họ gọi là dùng cây sống làm choái cho cây
chết). Kết quả là vừa tạo được bóng mát cho cây tiêu phát triển tốt, lại không
phải tìm nguồn gố thay thế hàng năm khi chân thoái khô bị mục và đặc biệt
là hạ giá thành hạt tiêu thành phẩm xuống còn một nửa so với trước.
Một điều quan trọng nữa là trong việc nuôi dưỡng cây hồ tiêu, nước
tưới là một yếu tố không thể thiếu. Vậy mà ở Quảng Bình, có những vùng
đồi rất xa nguồn nước nhưng cây tiêu vẫn phát triển tốt. Đó là nhờ sự sáng
tạo của những người nông dân nơi đây khi họ nghĩ ra cách nối các dây kim
tiêm (loại dùng một lần) đã bị thải từ những bệnh viện vào các ống cao su
dẫn nước, để lượng nước rỉ ra từ những chiếc kim tiêm suốt ngày đêm vừa đủ
giữ độ ẩm liên tục cho cây hồ tiêu.
Lợi thế sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam còn được thể hiện ở
diện tích canh tác vùng đồi núi, vùng tây nguyên rộng lớn, khí hậu ấm áp
phù hợp với các loại cây gia vị nhất là hạt tiêu. Tập quán trồng các loại cây
này đã hình thành từ lâu, nay có điều kiện phát triển. Các loại cây này được
xếp vào loại cây xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế. ở các vùng dân
cần có công ăn việc làm, đã có tập quán trồng và khai thác. Ngoài ra được
nhà nước khuyến khích, loại hình kinh tế gia đình và thôn xóm, làng bản,
canh tác tuỳ theo thời gian thuận tiện của nông dân nên người nông dân
chăm chỉ làm ăn, tăng thu nhập cho gia đình.
Sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam có được những lợi thế nhất
định về chất lượng, năng suất, nước tưới tiêu, nguồn nhân lực dồi dào và
nhân công rẻ. Như vậy, cần có một chiến lược đúng đắn để khai thác một
cách có hiệu quả nhất những lợi thế mà ta có được. Từ những lợi thế nêu
trên, thấy rõ sự cần thiết phải có một chiến lược đúng đắn để phát triển sản
xuất và đẩy mạnh xuất khẩu gia vị.
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
6
CHƯƠNG II
Thực trạng thị trường gia vị thế giới và tình hình
sản xuất, xuất khẩu gia vị của Việt nam
Trong thời gian vừa qua
I. Thực trạng thị trường gia vị thế giới.
1. Nhập khẩu và tiêu thụ gia vị trên thế giới.
Buôn bán gia vị của thế giới trong thời gian 5 năm từ năm1996 đến
năm 2000 đã tăng từ mức 984.000 tấn năm 1996 lên trên 1.162.000tấn năm
2000 với trị giá tăng từ 2,01 tỷ USD lên 2,54 tỷ USD. Các loại gia vị được
buôn bán phổ biến nhất trên thị trường thế giới hiện nay là: hạt tiêu, ớt, bạch
đậu khấu và nhục đậu khấu, hạt gia vị gừng, đinh hương, quế, vani, rau
thơm, nghệ và lá nguyệt quế
Các thị trường tiêu thụ gia vị lớn nhất trên thị trường trên Thế giới và
EU, Mỹ và Nhật Bản. Trong thời gian 1996-2000, chỉ riêng 3 thị trường này
đã mua hơn 60% lượng gia vị xuất khẩu của Thế giới (trong đó thị trường
EU mua tới 31%, và thị trường Mỹ mua 21,5% và thị trường Nhật Bản mua
gần 8,0% lượng gia vị xuất khẩu của Thế giới). Năm nước nhập khẩu lớn
tiếp theo là Singapore (7,3%), ảRập Saudi(3,9%), Malaysia (2,5%), Mêhicô
(2,4%), Canada (2,4%). Tựu trung lại, 8 nước và khu vục này đã mua đến
80% lượng gia vị xuất khẩu cuả Thế giới.
Nhập khẩu gia vị của thế giới đã tăng với tốc độ trung bình hàng năm là
6,1% trong thời gian 1996-2000. Do hầu hết các nước nhập khẩu không phải
là các nước sản xuất gia vị nên tốc độ này là chỉ số phản ánh tiêu thụ gia vị
tăng trên thị trường thế giới.
Tiêu thụ từng loại gia vị phụ thuộc vào các yếu tố như dân số, thu
nhập và chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu các ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm, các thói quen xã hội. Việc gia tăng số lượng các cộng đồng dân tộc ít
người, tăng số lượng người đi du lịch nước ngoài và việc học hỏi cách chế
biến các món ăn mới lạ về chế biến ở nhà, ảnh hưởng của các phương tiện
truyền thông dẫn đến những thay đổi lớn trong thói quen tiêu thụ tất cả
những điều này dẫn đến việc tăng nhu cầu nhập khẩu các loại gia vị trên thị
trương thế giới.
Hiện nay, các hộ gia đình là khu vực tiêu thụ chính gia vị ở các nước
đang phát triển. Trong khi ở các nước công nghiệp phát triển, ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm (nhất là ngành công nghiệp chế biến thịt, cá, sản
xuất đồ uống có cồn, chế biến bánh kẹo, thực phẩm ăn sẵn ) lại là ngành
tiêu thụ gia vị quan trọng nhất chiếm khoảng 50 - 60%, sau đó đến tiêu thụ
gia vị tại các gia đình chiếm khoảng 30 - 40% và cuối cùng, ngành dịch vụ
ăn uống công cộng chiếm khoảng 10% tổng tiêu thụ gia vị.
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
7
Bảng số 2: Tình hình nhập khẩu gia vị của một số nước/ khu vực nhập
khẩu chính thời gian 1996-2000
Đơnvị: triệuUSD
Nước nhập khẩu/ Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Thế giới 2018,05 2293,63 2440,11 2596,03 2544,54
Trong đó: EU-15 559,92 756,47 794,79 814,74 788,88
Trong đó: CHLB Đức 144,72 182,39 191,27 202,73 180,27
Hà lan 91,17 129,59 131,22 157,55 145,72
Pháp 76,35 86,65 97,57 98,86 102,6
Anh 69,39 94,74 96,17 88,27 95,61
Tây Ban Nha 69,98 90,23 96,49 83,01 80,86
Đông Âu 36,66 46,20 40,65 38,65 40,74
Trung đông
(ả rập Xê út)
63,49 59,37 64,15 72,21 98,77
Bắc Mỹ 424,83 491,82 536,26 588,29 609,29
Trong đó: Mỹ 378,07 439,67 478,45 522,74 548,12
Châu á
525,58 560,75 466,17 554,58 544,51
Trong đó: Nhật Bản 238,51 236,59 185,69 198,31 200,06
Singapore 138,94 183,54 148,22 201,23 185,19

Nguồn: ITC/UNCTAD/WTO Global Spice Markets - Imports1996 - 2000
Geneva, Switzerland, Sept, 2002
2. Xuất khẩu và cung cấp gia vị trên thị trường thế giới.
Về phía cung cấp cho xuất khẩu, hầu hết các loại gia vị buôn bán trên
thị trường thế giới đều được trồng ở các nước đang phát triển và kém phát
triển ở miền khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới châu á, châu Phi và Mỹ
Latinh. Tình hình phân bố sản xuất cụ thể một số loại gia vị được thể hiện
qua.(Bảng số 3)
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
8
Bảng số 3: Các nước sản xuất gia vị chính của thế giới.
Loại gia vị Nước và khu vực sản xuất chính
Hạt tiêu
ấn độ, Inđônêxia, Việt Nam, Malaixia, Braxin
ớt Pimento ấn độ, Chi lê, Giamaica, Malaixia, Trung quốc,
Malawi
Vani Mađagaxca, Inđônêxia, Trung quốc, Côxta Rica,
Mêhicô, Tahiti
Quế Xrilanca, Xâysen, Trung quốc, Inđônêxia, Việt Nam
Đinh hương Mađagaxca, Tanđania, Xrilanca, Braxin, Inđônêxia
Nhục đậu khấu và
bạch đậu khấu
Guatêmala, ấn độ, Xrilanca, Grênada
Gừng chưa chế biến
Trung quốc, ấn độ, Inđônêxia, Nigiêria, Jamaica
Các loại gia vị khác *
Iran, ấn độ, Trung quốc, Thổ nhĩ kỳ, Pakixtan,
Marốc, Việt Nam
Các loại gia vị và hỗn
hợp gia vị khác **
ấn độ, Thổ nhĩ kỳ, Mêhicô, Inđônêxia, Thái lan
Nguồn: Micaele Maftei, chuyên gia sản phẩm chính của ITC Hồ sơ mặt
hàng - xuất khẩu gia vị của các nước kém phát triển: cơ hội và thách thức
Chú thích: (*) gồm có: thơm, hạt mùi, hạt thì là
(**) gồm có: nghệ, hỗn hợp mọi gia vị, hoa hồi
Các nước sản xuất chính cũng đồng thời là những nước cung cấp gia
vị chủ yếu cho thị trường thế giới. Trừ ấn độ, Trung quốc, Inđônêxia là
những nước sản xuất lớn đồng thời cũng là những nước tiêu thụ gia vị lớn,
hầu hết các nước khác sản xuất gia vị chủ yếu cho mục tiêu xuất khẩu thu
ngoại tệ.
Inđônêxia thay thế ấn độ trở thành nước xuất khẩu gia vị lớn nhất thế
giới năm 2000. Trong thời gian 5 năm qua, xuất khẩu gia vị hàng năm của
Inđônêxia dao động trong khoảng 240 - 370 triệu USD, năm cao nhất là năm
2000 nước này xuất khẩu 371,5 triệu USD hàng gia vị chiếm 14% tổng kim
ngạch nhập khẩu gia vị của thế giới. Các nước xuất khẩu lớn tiếp theo là ấn
độ, Trung quốc đạt kim ngạch xuất khẩu hàng năm từ trên 200 triệu đến trên
300 triệu USD. Đặc biệt, ấn độ đã từng đạt mức xuất khẩu 386 triệu USD
gia vị năm 1999. Malaixia và Việt Nam nằm trong số 5 nước xuất khẩu gia
vị đứng đầu thế giới thời gian 5 năm qua với kim ngạch xuất khẩu hàng năm
đạt trên 100 triệu USD. Ngoài ra, Mađagaxca và Braxin cũng là những thị
trường truyền thống xuất khẩu gia vị. Tính chung lại, xuất khẩu của 7 nước
đứng đầu thế giới chiếm hơn 50% lượng xuất khẩu gia vị thế giới và tỷ trọng
này có xu hướng tăng thời gian 1996 - 2000.
3. Diễn biến giá cả quốc tế các loại gia vị trong thời gian qua.
Nhìn chung, giá cả quốc tế các loại gia vị biến động rất lớn trong thời
gian qua và phụ thuộc chủ yếu vào tình hình cung cấp gia vị trên thị trường
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
9
thế giới. Trong khi nhu cầu tiêu thụ của thế giới ổn định theo xu hướng tăng
thời gian qua thì sự biến động lớn về giá quốc tế các loại gia vị phản ánh
tình hình biến động của lượng sản xuất, xuất khẩu gia vị của thế giới trước
tác động ảnh hưởng của điều kiện khí hậu thời tiết thay đổi ở các nước sản
xuất gia vị chính, chu kỳ phát triển tự nhiên của các loại cây gia vị, biến
động của lượng dự trữ mặt hàng gia vị, tình hình phát triển kinh tế của các
nước xuất khẩu gia vị Những biến động thất thường về giá một số loại gia
vị trên thị trường thế giới thời gian qua theo sự biến động của sản xuất như
sau:
Hạt tiêu: Đơn giá nhập khẩu hạt tiêu của thế giới là 2,59 USD/kg
năm1996 đã tăng mạnh năm 1997 và đạt đỉnh cao 4,84 USD/kg năm1998
trước khi bắt đầu chu kỳ giảm từ năm 1999 đến nay, tuy vụ năm 2002 có xu
hướng nhích lên nhưng có thể xu hướng giảm giá vẫn chưa dừng lại do vụ
thu hoạch mới sắp đến và các nước trồng hồ tiêu không có kế hoạch điều
chỉnh cung ứng ra thị trường thế giới.
Bạch đậu khấu: giá bạch đậu khấu trên thị trường thế giới phụ thuộc
chủ yếu vào sản xuất của Guatêmala - nước sản xuất bạch đậu khấu lớn nhất
thế giới ngoài ra giá cũng bị chi phối bởi các nhà sản xuất ấn Độ - nước sản
xuất lớn thứ hai thế giới. Sản lượng của Guatêlama 1999 đạt khoảng 13.000
tấn và của ấn Độ là khoảng 7.000. Một nửa sản lượng của ấn Độ được bán
đấu giá tại thị trường trong nước, giá cả tăng gấp 2 lần năm 1999. Tuy nhiên
vào đầu tháng 12/1999, giá giảm khoảng 30% khi có tin về sản lượng của
Guatêmala. Vào đầu năm 2000, giá tiếp tục giảm do tăng cung cấp của
Guatêmala ra thị trường thế giới. Nhưng sau đó giá lại tăng cao do giảm
mạnh diện tích trồng ở ấn Độ (chỉ còn 80.000 ha) làm giảm lượng cung cấp
của nước này.
Đinh hương: thị trường đinh hương có đặc điểm là cung cấp thiếu đã
trở thành yếu tố cơ cấu. Thu hoạch của Mađagaxca niên vụ 1998/1999 chỉ
bằng 25% mức thu nhập của các năm được mùa trong khi sản lượng của
Inđônêxia ước giảm 50% không đủ đáp ứng nhu cầu cho ngành công nghiệp
thuốc lá. Giá cả tăng từ 1350USD/ tấn (CIF Mađagaxca) vào tháng giêng
1999 lên 6000USD/ tấn vào tháng 7/1999 trước khi giảm xuống còn
3300USD/ tấn vào cuối năm. Vào đầu năm 2000 giá lại tiếp tục tăng. Xu
hướng chung là giá đinh hương tăng liên tục thời gian 1996 - 2000 và vào
năm 2000 đơn giá nhập khẩu đinh hương của thế giới đã tăng gấp 2,85 lần
so với mức giá của năm 1996.
Quế: Trong thời gian 5 năm 1996 - 2000, giá quế biến động theo xu
hướng giảm liên tục qua các năm, năm 1996 giá đạt mức cao nhất trong thời
kỳ xem xét là 2,11 USD/kg, năm 1997 giá vẫn ổn định ở mức này và bắt đầu
tụt dốc từ 1998, giá giảm mạnh qua các năm 1999 - 2000 và chỉ còn
1,39USD/kg.
ớt: Giá ớt quốc tế có xu hướng giảm liên tục từ năm 1996 đến 1999
và bắt đầu nhích lên vào năm 2000. Năm 1996 đơn giá nhập khẩu ớt của thế
giới đạt 1,91 USD/kg, giá có xu hướng giảm liên tục qua các năm 1997-
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
10
1999, đến năm 1999 giá chỉ còn 1,60 USD/kg, năm 2000 giá có nhích lên
chút ít và đạt 1,63 USD/kg
Vani: Giá vani quốc tế, sau khi đã giảm 60% năm 1996 lại tiếp tục
giảm 26,5% và 12,7% các năm 1997 và 1998, giá vẫn chịu sức ép lớn vào
năm 1999 và chỉ được cải thiện vào năm 2000. Đơn giá nhập khẩu vani của
thế giới đã giảm từ 24,73 USD/kg năm 1996 xuống còn 15,47 USD/kg
năm1999 trước khi tăng lên 25,46 USD/kg vào năm 2000. Sản xuất giảm sút
cả về mặt số lượng và chất lượng sau khi giá vani quốc tế lại biến động
mạnh đã dẫn tới xu hướng các nhà sử dụng cuối cùng chuyển sang sử dụng
vani tổng hợp thay thế sản phẩm va ni tự nhiên. Đây cũng là nguyên nhân
làm cho vani tự nhiên của thế giới giảm mạnh năm 1998 và vẫn rất yếu năm
1999. Xu hướng sử dụng vani tổng hợp làm hương liệu thay thế cho vani tự
nhiên trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm hiện nay vẫn tiếp tục do
sự biến động thất thường của giá vani tự nhiên
Các loại gia vị khác: Trong số các loại gia vị còn lại, giá gừng và các
loại hạt gia vị biến động theo xu hướng giảm liên tục tương tự như sự biến
động của giá quế, riêng giá rau thơm, nghệ, lá nguyệt quế là biến động thất
thường, giá giảm năm 1997 nhưng lại đạt đỉnh cao vào năm 1998, sau đó
giảm mạnh vào các năm 1999 - 2000.
Nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu và chuyển khẩu, trong
đó hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất
trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu.
Phương thức này cũng được áp dụng nhiều đối với hàng gia vị, trong đó các
thị trường tái xuất lớn là singapore, Hà lan, Đức
4. Kênh phân phối gia vị thị trường thế giới.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
và dịch vụ nhà hàng ở các nước đang phát triển và các nước công nghiệp
phát triển đã đến sự thay đổi các kênh phân phối trên thị trường quốc tế: các
nhà chế biến công nghiệp và các công ty dịch vụ thực phẩm lớn ngày càng
tăng vai trò trong nhập khẩu hàng gia vị. Các nhà sử dụng cuối cùng và các
nhà chế biến gia vị lớn trong lĩnh vực chế biến thực phẩm và dịch vụ nhà
hàng ngày càng có xu hướng ít sử dụng đại lý và môi giới mà họ thích quan
hệ trực tiếp với các nhà sản xuất và xuất khẩu gia vị hơn. Để đảm bảo nguồn
cung cấp gia vị ổn định với chất lượng cao, những công ty đa quốc gia này
thường tham gia liên doanh với các nhà sản xuất và xuất khẩu gia vị ở các
nước đang phát triển. Sự phát triển mới này trong buôn bán gia vị quốc tế có
thể sẽ dẫn đến việc hình thành các chiến lược mới đối với xuất khẩu gia vị ở
các nước đang phát triển.
5. Các phương thức buôn bán, đóng gói và vận chuyển hàng gia vị
5.1. Phương thức buôn bán.
Nhìn chung trên thị trường thế giới hiện nay có những phương thức
giao dịch buôn bán chủ yếu sau : giao dịch thông thường, giao dịch qua
trung gian, buôn bán đối lưu, đấu giá quốc tế, đấu thầu quốc tế, giao dịch tại
sở giao dịch hàng hóa, giao dịch tại hội chợ triển lãm, giao dịch tái xuất
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
11
khẩu Trong đó, các phương thức buôn bán thông thường, buôn bán qua
trung gian và buôn bán tại sở giao dịch, giao dịch tái xuất là những phương
thức giao dịch chủ yếu đối với hàng gia vị trên thị trường thế giới.
5.1.1.Buôn bán thông thường.
Buôn bán thông thường có thể là buôn bán trực tiếp giữa bên mua với
bên bán, cũng có thể là buôn bán thông qua thương nhân trung gian được
thực hiện ở mọi nơi mọi lúc trên cơ sở tự nguyện của các bên.
Phương thức giao dịch buôn bán thông thường ngày càng phát triển do
trình độ năng lực làm công tác ngoại thương của người sản xuất được nâng
cao, công nghệ thông tin phát triển mạnh. Đồng thời, cùng với sự phát triển
của sản xuất, sản phẩm càng phong phú và đa dạng, chi tiết phức tạp, do đó
trong phương thức buôn bán này cũng thường gắn với dịch vụ trong và sau
bán.
5.1.2. Giao dịch tái xuất.
Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu
về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch này luôn thu hút 3
nước : nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu, vì vậy người ta còn
gọi giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên hay giao dịch tam giác.
Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai cách :cách xuất theo
đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái
xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược
chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền. Nước tái
xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Nước tái xuất
trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Phương thức
này cũng được áp dụng nhiều đối với hàng gia vị trong đó các thị trường tái
xuất lớn là Singapore, Hà lan, Đức
5.2. Các phương thức đóng gói hàng gia vị.
Trong buôn bán quốc tế, tuy không ít mặt hàng để rời nhưng đại bộ
phận hàng hoá đòi hỏi phải được bao gói trong quá trình vận chuyển và bảo
quản. Vì vậy, tổ chức đóng gói, bao bì, ký mã hiệu là khâu quan trọng của
việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
Tổ chức về tiêu chuẩn hoá quốc tế đã thiết lập ra tiêu chuẩn quốc tế
đối với bao bì các sản phẩm gia vị. Trong hầu hết các trường hợp, các tiêu
chuẩn liên quan chặt chẽ với chất lượng sản phẩm, và đề cập đến các nhân tố
như kích cỡ, trọng lượng, màu sắc, độ ẩm và độ chín.
Bên cạnh tiêu chuẩn chính thức, có một số yêu cầu liên quan đến bảo
quản và điều kiện vận chuyển. Chẳng hạn, đối với quế thì thường được đóng
theo các tiêu chuẩn sau đây : Quế Srilanca được đóng gói với trọng lượng
45kg, Quế Inđônêxia là 50 và 60kg, Quế Việt nam là 30 và 60kg.
Các loại bao bì cho mặt hàng các loại:
Bao tải dệt : loại bao bì này vẫn được sử dụng phổ biến cho hàng gia
vị xuất khẩu. Vật liệu truyền thống để làm bao bì này là đay và sisal. Tuy
nhiên, nhưng bao bì xuất khẩu này chưa phù hợp với việc đóng gói và vận
chuyển theo yêu cầu của các nước phát triển.
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
12
Bao bì bằng giấy và bìa (có thể giấy kết hợp với các vật liệu khác):
loại bao bì này cũng được sử dụng cho xuất khẩu gia vị với nhiều loại kích
cỡ khác nhau có nhiều tính năng hóa lý. Theo hiệp hội gia vị Châu Âu, đối
với hầu hết các nhà chế biến gia vị ở Anh các bao giấy nhiều lớp được ưu
dùng nhất. Các nhà nhập khẩu Anh coi bao bì giấy lý tưởng theo đơn vị là
5kg hoặc 12,5kg đối với thảo dược. Các lớp bao bì có thể thay đổi tùy thuộc
vào sản phẩm, quãng đường nhưng bao tải ba lớp là tốt nhất.
Bao tải nhựa: thông thường được làm từ màng nhựa polyethylene. Có
nhiều loại nhựa khác nhau như LDP,HDP Và các màu sắc khác nhau. Tùy
thuộc vào trọng lượng được bao gói, mà độ dầy của màng có thể thay đổi từ
60 - 100 microns. Bao tải nhựa có rất nhiều hình dạng khác nhau được thiết
kế, chế tạo dựa trên các sản phẩm cụ thể và yêu cầu của nhà nhập khẩu.
Thùng nhựa: các thùng nhựa lớn đã phát triển từ các thùng bằng gỗ
truyền thống, các thùng nhựa này thường để chứa những hàng gia vị có giá
trị cao và vật liệu chế tạo là LDP, các thùng này được ưa dùng vì rất tiện lợi
trong việc đóng hàng và dỡ hàng. Các thùng nhựa hiện nay có dung tích
chứa từ 30 - 200 lít, bất kể hình dạng và hệ thống đóng mở như thế nào,
hàng hoá chứa đựng bằng thùng nhựa đòi hỏi phải hoàn toàn khô ráo để
phòng ngừa khả năng sinh ra mốc. Việc xếp dỡ thùng nhựa thường bằng
phương tiện máy móc.
5.3. Các phương thức vận chuyển hàng gia vị.
Chính xuất phát từ tính chất và đặc điểm của hàng gia vị mà các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu lớn lựa chọn phương thức vận chuyển bằng
đường biển. Trong trường hợp chuyên chở bằng containơ, hàng được giao
cho người vận tải theo một hay hai phương thức:
Nếu hàng đủ một containơ, chủ hàng phải đăng kí thuê containơ, chịu
chi phí chở containơ từ bãi containơ về cơ sở của mình đóng hàng vào
containơ, rồi giao hàng cho người vận tải.
Nếu hàng không đủ một containơ, thì chủ hàng phải giao cho người
vận tải tại ga containơ và người vận tải tổ chức thu xếp containơ của nhiều
chủ hàng rồi cấp vận đơn cho từng chủ hàng.
Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông
tin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì
vậy trong nhiều trường hợp, chủ hàng xuất khẩu thường uỷ thác việc thuê
tàu, lưu cước cho một công ty hàng hải.
Cũng như các hàng hoá chuyên chở trên biển để tránh rủi ro tổn thất.
Cần bảo hiểm hàng hoá đường biển, dùng loại bảo hiểm phổ biến nhất trong
ngoại thương.
6. Những yếu tố tác động đến nhập khẩu gia vị của các nước.
- Cung và cầu là yếu tố quan trọng mà chủ yếu tác động đến xuất nhập
khẩu của các nước.
- Thị hiếu tiêu dùng gia vị của các thị trường tiêu thụ. Nhu cầu của các
nước nhập khẩu cả các nước công nghiệp phát triển và đang phát triển về gia
vị vẫn tăng, đây là cơ hội để các nước đẩy mạnh xuất khẩu
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
13
- Các chính sách thương mại của các nước nhập khẩu trong đó đặc
biệt là chính sách thuế và phi thuế quan : đối với hàng gia vị, là sản phẩm
xuất khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển và chậm phát triển và không
cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của các nước phát triển lên mức thuế quan
nhìn chung không cao và nhiều gia vị xuất khẩu được miễn thuế. Nhưng do
yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm và môi trường rất cao, yêu cầu ngặt
nghèo về điều kiện quy cách phẩm chất lên đã cản trở lớn tới xuất khẩu của
các nước xuất khẩu
- Tính cạnh tranh và các kênh phân phối trên các thị trường nhập
khẩu:
Ví dụ : Thị trường gia vị Châu Âu có tính cạnh tranh rất cao và do các
nhà chế biến, các nhà xay, nghiền lớn chi phối. Đối với một số phân đoạn thị
trường phát triển nhanh, có cơ hội cho các nhà xuất khẩu các sản phẩm gia
vị mà chất lượng đảm bảo độ tin cậy, đáp ứng được nhưng tiêu chuẩn ngặt
nghèo của EU và đảm bảo giao hàng đều đặn. Rất lên sử dụng các nhà nhập
khẩu, các đại lý hay môi giới, những người có thông tin tốt về xu hướng mới
nhất của thị trường, biết cách trưng bày, giới thiệu sản phẩm nhằm thâm
nhập thị trường thành công.
- Giá cả, các điều kiện giao hàng và thanh toán.
- Hoạt động quảng cáo xúc tiến xuất khẩu của các nhà xuất khẩu,
phân phối
II. Tình hình sản xuất và xuất khẩu gia vị của Việt Nam.
1. Tình hình sản xuất và chế biến gia vị của Việt Nam.
1.1. Hạt tiêu
* Sản xuất:
Hạt tiêu đã được biết đến và dùng làm gia vị cách đây trên 3.000 năm.
Các đặc tính của hạt tiêu đã khiến mặt hàng gia vị này không những trở
thành một trong yếu tố cần thiết trong nghệ thuật ẩm thực của thế giới hiện
đại ngày nay, mà còn được ứng dụng trong dược phẩm.ở nước ta, thời gian
gần đây, cây hồ tiêu đang dần chiếm ưu thế trong mô hình kinh tế vườn
trang trại vì lợi ích kinh tế mang lại cao hơn so với các loại cây trồng khác
như: cà phê, điều, cao su (cao hơn 1,5 lần). Hiện hồ tiêu tập trung nhiều ở
các tỉnh phía nam như: Bình Phước 8.246 ha; Đắc Lắc 8.000 ha; Bà Riạ-
Vũng Tàu 4.720 ha; Gia Lai 2.000 ha; Đồng Lai 4.370 ha; Bình Thuận 1.730
ha; Quảng Trị 2.025 ha; Bình Dương 890 ha; Kiên Giang 898 ha; Tây Ninh
894 ha; Lâm Đồng 383 ha và một số tỉnh khác như: Quảng Bình, Phú Yên,
Quảng ngãi, TP Hồ Chí Minh, Bình Định, Khánh Hoà, Kon Tum cũng
phát triển mạnh cây hồ tiêu, đưa tổng diện tích cây tiêu trong cả nước hiện
lên 50.000 ha, một con số khá lớn. Tuy nhiên, ngành sản xuất hồ tiêu còn
đang gặp nhiều khó khăn do người sản xuất đa số là các hộ nông dân nhỏ,
vốn ít nên việc đầu tư chăm sóc cũng như bảo quản sau thu hoạch còn nhiều
hạn chế. Dưới đây là kết quả cụ thể về sản xuất hạt tiêu.
Nguyễn Mạnh Hưng MSV 99D 454 Luận văn tốt nghiệp
Khoa Thương mại Trường ĐH Quản lý & Kinh doanh
14
Bảng số 4: Tình hình sản xuất hạt tiêu của Việt Nam thời kỳ 1996 2003
Đ/v: DT:1.000 ha; SL: 1.000 tấn
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Diện tích 7,4 9,8 12,8 17,6 27,9 36,1 47,8 50,0
Sản lượng 10,5 13,0 15,9 31,0 39,2 60,0 80,0 88,0
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2001 - 2003 đánh giá của hiệp hội hồ tiêu VN
* Chế biến :
Hầu hết hạt tiêu sau khi thu hoạch từ người nông dân đều được phơi
và cất giữ theo phương pháp truyền thống (phơi khô tự nhiên trong bóng
râm) nên chất lượng không đều. Do vậy, sự đầu tư đồng bộ về sân phơi, máy
sấy hoặc bảo quản đúng quy trình là rất cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay
cũng chỉ có một số công ty có vốn đầu tư nước ngoài và một vài công ty Việt
Nam đầu tư vào thiết bị chế biến tiên tiến để sử lý hạt tiêu xô thành hạt tiêu
có chất lượng cao với công xuất chỉ đảm bảo được khoảng 30% tổng sản
lượng hạt tiêu xuất khẩu trong cả nước. Như vậy, đây đang là lĩnh vực bỏ
ngỏ cho ngành hồ tiêu Việt Nam trong việc phát triển một ngành công
nghiệp chế biến nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe hơn về vệ
sinh an toàn thực phẩm của thị trường cũng như sự đa dạng hoá các sản
phẩm từ hạt tiêu.
1.2. Nhóm gia vị có chứa tinh dầu( quế, hồi, gừng, nghệ, ớt, tỏi ).
* Sản xuất :
Những năm 80 là thời kỳ nhóm hàng này phát triển mạnh về diện tích.
Cả nước thời gian đó có sản lượng trên 10.000 tấn quế thanh (tập trung ở
Yên Bái, Lạng Sơn và Quảng Nam Quảng Ngãi ); 5.000 tấn hồi (chủ yếu
ở Lạng Sơn, Quảng Ninh , Cao Bằng ); tỏi, gừng, nghệ được trồng nhiều tại
các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là tỏi và ớt với sản lượng hàng chục
ngàn tấn sấy khô. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây, do thị trường tiêu thụ bị
co hẹp, nên các loại cây gia vị trên đã bị thay thế bằng các loại cây khác.
Những địa phương trước đây có vùng tập trung lớn về tỏi, ớt, nghệ như:
Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, nay đã chuyển sang canh tác
rau, củ vụ đông như cà chua, bắp cải, dưa chuột
* Chế biến :
Nhóm hàng gia vị trên được xuất khẩu dưới dạng phơi, sấy khô (bột,
thái lát hoặc nguyên quả như ớt). Công nghệ chế biến chủ yếu là thủ công
theo phương pháp truyền thống. Do vậy, chất lượng chưa cao và không ổn
định. Đây là điểm yếu khiến nhóm hàng này không có sức cạnh tranh trong
cơ chế thị trường, nhất là đối với các mặt hàng cùng loại của Trung Quốc.
Chẳng hạn tỏi Việt Nam tuy thơm và hàm lượng tinh dầu cao hơn tỏi Trung
Quốc 1,5 lần nhưng do củ bé, năng suất thấp, nhiều tép vụn nên khi chế
biến, các lát tỏi hay bị vỡ vụn, màu sắc tối, giá thành cao gấp gần 2 lần tỏi
Trung Quốc nên dần mất khách hàng( hiện tỏi lát sấy khô Trung Quốc giá
thành 550USD/ tấn, VN là 900 - 1.000USD/ tấn). Tương tự, mặt hàng ớt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét