Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Ngân hàng Trung ương và chính sách tiền tệ ở VN.DOC

CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW, thông
qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lợng tiền cung
ứng nhằm đạt đợc các mục tiêu về sản lợng, giá cả và công ăn việc làm.
2.1.2. Cơ chế thực hiện CSTT.
Quá trình thực hiện CSTT bao giờ cũng đợc diễn ra theo một cơ chế nhất định.
Trong cơ chế này, NHTW sẽ là ngời thiết kế và điều hành CSTT. Một CSTT của
một quốc gia có thể đợc thực hiện theo hai hớng:
+ CSTT nới lỏng là chính sách nhằm tăng thêm khối lợng tiền tệ cung ứng
cho nền kinh tế làm cho tiền trở nên dồi dào, lãi suất hạ xuống từ đó kích thích
tiêu dùng và đầu t. Kết quả của CSTT nới lỏng là sản lợng tăng, nền kinh tế tăng
trởng cao với tỉ lệ thất nghiệp thấp.
+ CSTT thắt chặt là chính sách nhằm giảm khối lợng tiền tệ cung ứng cho
nền kinh tế làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số lợng, lãi suất bị đẩy lên cao,
tổng cầu giảm và do đó giá cả trên thị trờng giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi.
2.2. Mục tiêu của CSTT.
Hệ thống chính sách kinh tế (CSKT) vĩ mô là một hệ thống rất đa dạng gồm
nhiều CSKT khác nhau tạo thành. Mỗi chính sách có đặc điểm, nội dung và công
cụ điều tiết khác nhau nhng chúng đều có chung một mục đích là tạo ra môi trờng
kinh tế vĩ mô lành mạnh, có lợi cho sự tăng trởng và phát triển nền kinh tế. Trong
hệ thống các chính sách đó, CSTT giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nhờ có những u
điểm mà các CSKT vĩ mô khác không có đợc cho nên CSTT đợc coi là công cụ
hữu hiệu để điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nớc. Tuy nhiên là một bộ phận nằm
trong hệ thống CSKT vĩ mô, CSTT cũng nh các CSKT vĩ mô khác chỉ có thể phát
huy tác dụng một cách đầy đủ khi chúng đợc kết hợp chặt chẽ với nhau, đợc thống
nhất với nhau cả về mục tiêu cũng nh phơng pháp tiến hành. Là công cụ vĩ mô của
Nhà nớc, CSTT phải phục vụ cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ mô sau:
2.2.1. Tăng trởng kinh tế cao.
Bất kỳ CSTT của một quốc gia nào thì mục tiêu cao nhất của nó là sự tăng lên
của GDP thực tế. Đó là phần tăng trởng có đợc sau khi lấy phần tăng trởng danh
nghĩa trừ đi phần tăng giá trong tăng trởng cùng thời kỳ. Một nền kinh tế phồn
5
thịnh với tốc độ tăng trởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ một CSKT vĩ mô nào.
Bởi lẽ, nền kinh tế có tăng trởng cao là đồng nghĩa với việc giải quyết các mục tiêu
kinh tế khác của CSTT nh giảm thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân
2.2.2.ổn định giá cả.
Giá cả có tỷ lệ thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Khi giá cả lạm phát thấp
mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dơng, do vậy đời sống ngời lao động
tốt hơn. Nhân dân tin tởng vào chính quyền và chính sách của Nhà nớc. Giá cả có
tỷ lệ lạm phát thấp sẽ đồng thời làm cho lãi suất thực tế dơng và lãi suất danh
nghĩa sẽ thấp hơn, do đó sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ về mặt dài hạn và nền
kinh tế sẽ có sức bật đầu t về lâu dài. Khi giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp, hiện tợng
đầu cơ sẽ biến mất, giá trị tiền nội địa sẽ đợc ổn định.
Ngợc lại, khi giá cả lạm phát cao, thu nhập ngời lao động sẽ không tăng kịp
với phần tăng giá sẽ làm cho đời sống họ thêm khó khăn, nạn đầu cơ sẽ phát sinh
làm cho một số bộ phận giàu lên rất nhanh trong khi đại đa số nhân dân trở nên
nghèo hơn. Khoảng cách giàu và nghèo lớn dần và nhân dân mất niềm tin vào
chính quyền.
ổn định giá cả vì thế là một mục tiêu quan trọng nhất của CSTT .
2.2.3. Công ăn việc làm cao.
Việc làm cao cho ngời lao động là một mục tiêu kinh tế - xã hội của mọi quốc
gia hiện nay. Nếu xã hội có ít công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ dẫn đến
hậu quả: lãng phí các nguồn lực, làm giảm sản lợng quốc gia, làm giảm thu nhập
trong dân chúng gây khó khăn cho đời sống của họ thậm chí có thể làm tăng các tệ
nạn xã hội. Vì vậy việc làm cao là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia có nền
kinh tế phát triển cũng nh đang phát triển.
Một chính sách tiền tệ đúng thúc đẩy sản xuât, khuyến khích đầu t sẽ tạo ra
nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống.
2.2.4. ổn định thị trờng tài chính.
Nền tảng tài chính ổn định là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngoài những mục
tiêu nói trên. NHTW phải ổn định hoạt động tài chính của hệ thống tài chính trong
6
nớc một cách gián tiếp. Tăng cờng hiệu quả cho nó, kể cả thu thập thông tin, hớng
dẫn, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức tài chính trong chiều hớng quản lý hoạt
động của nó phù hợp vơí các mục tiêu của nền kinh tế. Bản thân hệ thống tài chính
có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi những mục tiêu này đối chọi với
những mục tiêu chung của nền kinh tế. Vậy vai trò của CSTT là phải hài hoà một
cách tối u giữa các mục tiêu nói trên để phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung mà
không làm tổn hại hay hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính.
2.3. Công cụ của CSTT.
Công cụ của CSTT là các hoạt động đợc thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm
ảnh hởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lợng tiền trong lu thông và lãi suất, từ
đó mà đạt đợc các mục tiêu của CSTT .
2.3.1. Công cụ gián tiếp.
Khi sử dụng những công cụ gián tiếp, NHTW đã làm thay đổi cơ số tiền và khả
năng tạo tiền của NHTM và do đó làm thay đổi lợng cung ứng tiền. Có các loại
công cụ gián tiếp chủ yếu sau:
+Nghiệp vụ thị trờng mở (NVTTM):
Nghiệp vụ thị trờng mở là các hoạt động của NHTW trên thị trờng mở thông qua
việc mua bán chứng khoán. Các hoạt động này ảnh hởng trực tiếp đến dự trữ của
các NHTM và ảnh hởng gián tiếp đến mức lãi suất.
Khi NHTW đem chứng khoán ra thị trờng mở để bán, nó thu tiền về cho nên:
1) nó làm giảm lợng cung ứng tiền mặt trong lu thông từ đó làm giảm khả năng
cho vay của NHTM; 2) Khi NHTM mua chứng khoán của NHTW, dù nó trả bằng
séc hay tiền mặt dự trữ của nó cũng giảm đi. Khi dự trữ của NHTM giảm, một lần
nữa nó làm giảm khả năng cấp phát tín dụng của các ngân hàng, và nh thế cung
ứng tiền trong nền kinh tế càng bị thắt chặt hơn nữa. Bên cạnh đó, khi NHTW bán
chứng khoán thu tiền về, lợng chứng khoán tiêu thụ ra thị trờng đột ngột trở nên
rất lớn. Chứng khoán d thừa làm giá của nó hạ và do vậy, lãi suất của chứng khoán
tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng sẽ buộc các NHTM phải tăng lãi suất ngân
hàng lên theo để tránh tình trạng nhân dân và các nhà đầu t rút tiền ra khỏi ngân
7
hàng đem đầu t vào chứng khoán. Lãi suất lên làm khan hiếm lợng cung ứng tiền
và cung ứng tiền khan hiếm làm giảm tỷ giá và giá cả hàng hoá.
Nh vậy, khi NHTW thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt cung ứng tiền tăng
lãi suất, giảm dự trữ, giảm tỷ giá và giảm phát giá cả.
Khi NHTW đem tiền mặt hoặc séc ra thị trờng mở mua chứng khoán, ảnh h-
ởng hoàn toàn ngợc lại. Lợng tiền mặt trong lu thông tăng lên, làm tăng dự trữ,
tăng lợng tín dụng đợc cấp phát bởi hệ thống NHTM. Lợng chứng khoán đợc
NHTW mua làm khan hiếm chứng khoán và đẩy giá nó lên. Giá chứng khoán tăng
làm giảm lãi suất của nó và đến lợt giảm lãi suất của hệ thống NHTM. Cung ứng
tiền tăng làm tăng tỷ giá và giá cả leo thang.
Nh vậy, NHTW thực hiện nghiệp vụ mua mở rộng cung ứng tiền, giảm lãi
suất, tăng dự trữ, tăng tỷ giá và chỉ số lạm phát gia tăng.
Nghiệp vụ thị trờng mở là công cụ quan trọng để thực thi việc nới lỏng hay
thắt chặt cung tiền. Nó có nhiều u điểm nh: linh hoạt, có thể tiến hành thờng
xuyên và đặc biệt có thể dễ dàng đảo ngợc lại.
+ Lãi suất cho vay triết khấu
Lãi suất cho vay triết khấu có hai tác dụng, một gián tiếp, một trực tiếp. Tác
dụng gián tiếp là nó làm tăng hay giảm lãi suất cho vay của NHTM và do đó tác
động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hay giảm dự
trữ của NHTM và do vậy tác động đến lợng cho vay tiêu dùng và đầu t trong nền
kinh tế.
Khi NHTW quyết định tăng lãi suất triết khấu, đó là một biến cố quan trọng
giống nh thay đổi CSTT. Lãi suất triết khấu tăng sẽ làm cho NHTM không thể vay
của NHTW nhiều và dễ dàng nh trớc. Do vậy nó phải giảm bớt cho vay để đảm
bảo dự trữ trở lại. Nh vậy, tác động thứ nhất là nó trực tiếp làm tăng dự trữ, giảm
cho vay và hiệu quả là tổng cầu và sản lợng giảm theo. Tác động thứ hai là nó làm
cho NHTM ý thức rằng trong trờng hợp khẩn cấp cần vay nóng của NHTW,
NHTM phải trả lãi suất cao, do vậy các NHTM sẽ từ từ nâng lãi suất lên theo để
khỏi thiệt hại nặng khi phải vay của NHTW. Lãi suất tăng tiếp tục thắt chặt cung
ứng tiền và tác động đến nền kinh tế.
8
Khi NHTW tuỷên bố giảm lãi suất triết khấu, nó khuyến khích các NHTM đến
vay nhiều hơn, điều này trớc hết làm tăng cung ứng tiền, tăng dự trữ. Dự trữ tăng
kích thích các NHTM cho vay nhiều hơn, dễ dàng hơn và điều này làm tăng nhanh
hơn nữa cung ứng tiền. Bên cạnh đó, khi NHTM có thể vay tiền của NHTW với lãi
suất hạ, nó sẽ sẵn sàng hạ lãi suất khi cho sản xuất và tiêu dùng vay. Toàn bộ lãi
suất, do vậy sẽ giảm theo, kích thích đầu t và mở rộng sản lợng.
+ Dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc của NHTM bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc quy
định bởi NHTW.
Bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW đã làm thay đổi những khoản
tiền ký gửi không kỳ hạn của NHTM, làm thay đổi số nhân tiền và do đó làm thay
đổi lợng cung tiền. Cụ thể, khi NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các
NHTM, sẽ làm tăng số nhân tiền và từ đó làm tăng cung ứng tiền. Ngợc lại, khi
NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM sẽ làm giảm số nhân tiền và
từ đó làm giảm cung ứng tiền.
2.3.2. Công cụ trực tiếp.
Ngoài các công cụ truyền thống kể trên của CSTT , NHTW còn sử dụng một
số công cụ có tính chất can thiệp trực tiếp vào thị trờng tiền tệ. Đó là công cụ hạn
mức tín dụng và lãi suất tiền gửi.
+Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là việc NHTW ấn định một khối lợng tín dụng phải cung
cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm cách để đa nó vào
nền kinh tế thông qua hoạt động cho vay của hệ thống NHTM. Nhờ việc ấn định
tín dụng này mà NHTW có thể kiểm soát và điều hành đợc khối lợng tiền tệ trong
thời gian đó.
Khi NHTW mở rộng hạn mức tín dụng đối với các NHTM thì khối lợng, phạm
vi cho vay trong nền kinh tế tăng lên, nhờ vậy khối tiền cung ứng cũng tăng. Ngợc
lại, để thắt chặt cung tiền, NHTW có thể hạn chế tín dụng đối với các NHTM
nhằm giảm khối lợng tiền cho vay trong nền kinh tế.
+ Lãi suất
9
Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền hay là giá cả của quyền sử dụng
tiền tệ trong một thời gian nhất định. Lãi suất có tác dụng mạnh mẽ đến nhu cầu
tiền tệ dùng cho tiêu dùng và đầu t, từ đó tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô
khác. Thông qua việc thay đổi mức lãi suất quy định (mức trần lãi suất cho vay tối
đa và mức sàn lãi suất huy động tối thiểu), NHTW buộc các NHTM phải thay đổi
mức lãi suất cho vay và lãi suất huy động của mình. Điều này ảnh hởng trực tiếp
đến thái độ của các nhà doanh nghiệp cũng nh của dân chúng, tức là có ảnh hởng
tới đầu t và tiêu dùng, từ đó ảnh hởng đến các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Tuy nhiên, hai công cụ hạn mức tín dụng và lãi suất chỉ đợc sử dụng để điều
tiết CSTT ở một số nớc đang phát triển. ở các nớc có nền kinh tế thị trờng phát
triển cao, các công cụ truyền thống (công cụ gián tiếp) của CSTT đã hoàn thiện,
thì NHTW không sử dụng các công cụ trực tiếp để điều hanh CSTT .
Nh vậy là có nhiều công cụ để điều hành CSTT. Mỗi công cụ tác động đến
cung tiền ở mức độ, phạm vi khác nhau. Trong quá trình sử dụng các công cụ này,
cần phải có sự kết hợp chặt chẽ các công cụ đó với nhau, tạo thành hệ thống công
cụ đồng bộ thì mới điều tiết kinh tế vĩ mô một cách có hiệu quả.
2.4. Vị trí của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô.
Trong hệ thống các CSKT vĩ mô, CSTT giữ vị trí đặc biệt quan trọng và trung
tâm. Thể hiện:
+ CSTT đợc sử dụng một cách thờng xuyên trớc bất kỳ một biến đổi nào của
tín hiệu thị trờng. CSTT có tác động nhanh chóng đến các biến số tiền tệ, có ảnh
hởng sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực hoạt động.
+ Chỉ khi có một CSTT đúng đắn thì các CSKT vĩ mô khác mới đợc sử dụng
hiệu quả, chi phối việc thực hiện các chính sách khác.
+ Khi có sự bất ổn bên trong nền kinh tế hay cú sốc từ bên ngoài thì CSTT bao
giờ cũng đợc sử dụng đầu tiên.
10
Chơng 2
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam
1. Chính sách tiền tệ và việc sử dụng các công cụ cstt những năm
qua ở VN.
1.1. Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở (NVTTM).
NVTTM bắt đầu vận hành vào 12/7/2000 đã có tác động nhất định tới vốn khả
dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trờng, đa dạng hoá kênh huy
động và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trờng liên ngân
hàng - thị trờng mở - thị trờng chứng khoán (TTCK) trong các thị trờng tài chính ở
Việt Nam hiện nay.
Hoạt động của NVTTM đợc ban hành theo quyết định số 85/2000/QD - NHNN
14 ngày 09/3/2000.Qua nửa năm hoạt động, NVTTM đã góp phần khắc phục khó
khăn bớc đầu trong thời vận hành.
Thành viên tham gia NVTTM là các TCTD và NHNN, bao gồm 15 thành viên
là Ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam , Ngân hàng công thơng Việt Nam, Quỹ tín dụng nhân dân Trung -
ơng, Ngân hàng đầu t và phát triển Việt Nam, NHTM cổ phần Đông á, Ngân
hàng CHINFON, NHTM cổ phần Sài Gòn Thơng Tín, NHTM cổ phần Quốc tế,
NHTM cổ phần Phơng Nam, NHTM cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Tân Việt, ABN AMRO Bank, Công ty
tài chính bu điện.Tuy cha phải là nhiều song số lợng các TCTD này đã đại diện
cho các TCTD hiện có ở Việt Nam. Qua các phiên giao dịch, số thành viên tham
gia dự thầu là nhỏ, phiên giao dịch đông nhất có 5 thành viên dự thầu, thấp nhất là
một thành viên, trong đó các NHTM quốc doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là
chủ yếu, còn các TCTD khác hầu nh cha tham gia dự thầu. Khối lợng giao dịch
qua NVTTM từ 12/07/2000 đến ngày 15/11/2000 của Ngân hàng công thơng Việt
11
Nam là 810,420 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam là 228,020 tỷ đồng,
Ngân hàng Đầu t và phát triển Việt Nam là 393,390 tỷ đồng.
Về hàng hoá giao dịch, theo quy chế hiện hành thì chỉ có các giấy tờ có giá
ngắn hạn mới đợc mua bán ở thị trờng mở, song cho đến nay, chỉ có tín phiếu kho
bạc và tín phiếu NHNN đợc mua bán. Tín phiếu NHNN đợc mua bán nhiều nhất
với số lợng 1.070 tỷ/1.448.500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc Nhà nớc chỉ có 378,500
tỷ đồng nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Nh vậy hàng hoá ở thị trớng
mở là khá đơn diệu và chỉ tập trung ở các NHTM quốc doanh.
Về phơng thức giao dịch, các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phơng thức
mua bán hẳn với tín phiếu NHNN, phơng thức mua có kỳ hạn đối với tín phiếu
kho bạc nhà nớc, còn phơng thức bán hẳn ít đợc thực hiện và đặc biệt phơng thức
bán có kỳ hạn cha đợc thực thi . Tính đến ngày 15/11/2000, doanh số trúng thầu ở
hình thức mua hẳn ở 13 phiên giao dịch là 480 tỷ đồng, doanh số mua có kỳ hạn là
418,50 tỷ đồng, doanh số bán hẳn là 550 tỷ đồng. Phơng thức đấu thầu thờng là
đấu thầu lãi suất .
1.2. Công cụ lãi suất cho vay triết khấu.
Lãi suất tái triết khấu là một công cụ quan trọng giúp NHTƯ thực hiện CSTT.
Nhng việc áp dụng công cụ này ở Việt Nam những năm vừa qua còn đang ở trạng
thái giản đơn do các phơng tiện làm căn cứ để NHNN thực hiện cho vay triết khấu
còn cha hoàn thiện (đó là các thơng phiếu, hối phiếu).
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN luôn luôn điều chỉnh lãi suất cho
vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. Có thể nói trong
thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho vay triết khấu thực sự trở thành
công cụ đắc lực trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm vừa qua đã
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả năng huy động vốn
trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều. Cụ thể: Trong năm 1997, lãi suất triết khấu đ-
ợc điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế. Từ tháng 03
đến tháng 07/1997: mức lãi suất triết khấu là 1,1%/tháng. Từ tháng 8 trở đi, lãi
suất triết khấu quy định là 0,9%/tháng. Năm 1998, NHNH quyết định tăng lãi suất
12
cho vay triết khấu lên mức 1,1%/tháng. Đến năm 1999, NHNN giảm lãi suất cho
vay chiết khấu đối với các NHTM lần1 (vào tháng 01/1999) là 1%/tháng, lần 2
còn 0,85%/tháng (31/05/1999). Sau nhiều năm chuẩn bị dự án, ngày 02/08/2000,
quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất sang cơ chế điều hành theo
lãi suất cơ bản đã đợc ban hành và trên cơ sở đó các NHTM đợc chủ động quy
định mức lãi cho vay cụ thể và lãi suất tiền gửi xoay quanh mức lãi suất cơ bản.
Trong những tháng 08,09,10,11,12/2000, lãi suất cơ bản đối với nội tệ (đồng VN)
vẫn giữ nguyên ở mức 0,75 %/tháng nhng lãi suất tái triết khấu tăng từ 0,40% lên
0,45%tháng, lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN đợc điều chỉnh từ 0,4% lên
0,5%.
1.3. Công cụ dự trữ bắt buộc.
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc( DTBB) đã trở thành công cụ chủ yếu để điều
hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng (ban hành năm1990) tỷ lệ
DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Xong xét hoàn cảnh thực tế bấy giờ: tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ
bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỷ lệ
DTBB đối với các NHTM ở nớc ta là mức 10%. Song trong thời gian gần đây
NHNN cũng liên tục giảm tỷ lệ DTBB đối với các TCTD với mong muốn khuyến
khích đầu t, thúc đẩy tăng trởng.
1.4. Công cụ hạn mức tín dụng.
Công cụ hạn mức tín dụng đợc NHNN áp dụng để điều hành CSTT trong những
năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián tiếp để điều hành CSTT cha
phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đa ra và áp dụng công cụ này trong những năm qua
đã có những kết quả nhất định, chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trờng.
Chẳng hạn, do lạm phát những năm 1990-1991 còn ở tỷ lệ cao, để khống chế
lạm phát, NHNN chủ trơng giảm bớt lợng tiền cung ứng hạn mức tín dụng đối với
tất cả NHTM là 34,5% (năm1992) và đã đạt đợc kết quả thực tế rất khả quan là
mức tăng trởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức lạm phát thấp hơn dự
kiến rất nhiều tiền tệ dần đi vào ổn định. Những năm sau đó, để kiểm soát lạm
13
phát, NHNN cũng đa ra tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM.
Nhng tình hình thực tế có khác đó là hầu hết các NHTM đều có xu hớng vợt quá
chỉ tiêu hạn mức tín dụng theo kế hoạch đã đợc giao. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến
nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia
tăng của tổng phơng tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai
đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trởng kinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn
mức tín dụng sẽ tạo thêm những nhân tố khó khăn cho các NHTM trong việc mở
rộng tín dụng. Vì vậy, từ quý II năm 1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này
nh một công cụ thờng xuyên để điều hành CSTT.
1.5. Công cụ lãi suất.
ở Việt Nam lãi suất đợc sử dụng nh công cụ của CSTT. Đặc biệt những năm
gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hớng từng bớc nới lỏng của NHNN đợc coi
nh một đối sách nhạy bén trớc những thay đổi của cung - cầu về tiền tệ.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, năm 1989, NHNN thực hiện một cơ
cấu kiểm soát lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phức tạp, ấn định các mức lãi
suất tiền gửi, lãi suất cho vay cụ thể theo đối tợng, nghành nghề kinh tế và kỳ hạn
vay mợn.
Năm 1990, cơ chế lãi suất trần tín dụng và sàn tiền gửi đã đợc áp dụng, nhng
vẫn đợc phân biệt theo kỳ hạn và loại hình khách hàng.
Kể từ năm 1993, NHNN đã bỏ hẳn hình thức lãi suất theo nghành, chỉ quy
định các mức trần, sàn lãi suất theo kỳ hạn giao dịch. Cũng vào thời gian này, cơ
chế lãi suất thoả thuận đã đợc thí điểm áp dụng đối với nguồn vốn hình thành do
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Trên thị trờng, vì cầu tín dụng cao hơn cung nên lãi
suất cho vay đã đợc đẩy lên rất cao và cơ chế lãi suất thoả thuận đã bị loại bỏ.
Bắt đầu 01/01/1996, NHNN thực thi chính sách trần lãi suất, tín dụng và quản
lý chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra (bỏ việc điều tiết trực tiếp lãi
suất tiền gửi). Cũng vào thời gian này, chế độ thuế doanh thu đánh vào hoạt động
tín dụng bị xoá bỏ, chi phí trung gian tài chính đợc điều chỉnh giảm mạnh, nên
trần lãi suất tín dụng cũng đã đợc điều chỉnh giảm mạnh. Lãi suất tín dụng trung
và dài hạn lần đầu tiên đã đuợc điều chỉnh cao hơn lãi tín dụng ngắn hạn.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét