Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất đinh. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền
đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị
rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa vào các tiêu thức sau đây:
1.1.1.2.1. Căn cứ thời hạn cho vay:
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã thoả thuận
trong Hợp đồng tín dụng giữa TCTD và khách hàng .
- Tín dụng ngắn hạn: Là khoản tiền ngân hàng cấp ra cho khách hàng
của mình với thời hạn tối đa là 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng ngân hàng cấp ra với thời hạn
từ trên 12 tháng đến tối đa là 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Là khoản tín dụng ngân hàng cấp ra cho khách
hàng với thời hạn từ trên 60 tháng ( hiện nay đến 10 năm)
1.1.1.2.2. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
Chia tín dụng ra thành:
- Tín dụng cho sản xuất: Là hình thức cấp tín dụng được đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất ( hay giải quyết nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh)
- Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức cấp tín dụng nhằm thoả mãn
những nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình và cá nhân như mua sắm
những tư liệu phục vụ cho sinh hoạt phục vụ cho tiêu dùng, trang trải cho
những chi phí như học tập, tham quan, du lịch….
- Tín dụng đầu tư: Là hình thức cấp tín dụng nhằm hình thành cũng
như mở rộng những tài sản cố định hiện có.
- Tín dụng xuất khẩu và nhập khẩu: Là hình thức cấp tín dụng được
thực hiện trong lĩnh vực xuất khẩu hay nhập khẩu.
- Tín dụng dự trữ: Là 1 hình thức cấp tín dụng để thoả mãn nhu cầu
dự trữ vật tư hàng hoá của khách hàng.
1.1.1.2 3. Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng:
Nguyễn Hữu Thắng Lớp Tài Chính 46Q
Chia tín dụng ra làm 2 loại: Tín dụng vốn lưu động và Tín dụng vốn
cố định:
- Tín dụng vốn lưu động: Nhằm giải quyết những nhu cầu vốn thiếu
hụt tạm thời trong sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn ( hay là tín
dụng ngắn hạn)
- Tín dụng vốn cố định: Nhằm đáp ứng những nhu cầu hình thành mới
hay việc mở rộng cho các tài sản cố định( thời hạn trên 12 tháng_)
1.1.1.2 4. Căn cứ vào xuất sứ của tín dụng (hay xuất sứ hình thành tín
dụng):
Chia tín dụng thành tín dụng trực tiếp và tín dụng gían tiếp:
- Tín dụng trực tiếp: được hình thành từ quan hệ trực tiếp giữa ngân
hàng và khách hàng( người cho vay và người đi vay)
- Tín dụng gián tiếp: Việc phát tiền vay được thực hiện cho 1 khách
hàng và việc thanh toán khoản nợ thì được thực hiện ở 1 khách hàng khác.
Nếu trên kinh tế thị trường thì hình thức tín dụng gián tiếp là phổ biến ở
các nước khác 60% khoản vay thông qua nghiệp vụ triết khấu. Vì cho vay
bằng cách này có tính đảm bảo an toàn cao nhất, độ rủi ro thấp nhất.
1.1.1.2 5. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng:
Phân ra làm hai loại: Tín dụng bằng tiền và Tín dụng bằng hiện vật
hay tài sản:
- Tín dụng bằng tiền là hình thức cấp tín dụng được thực hiện bằng
cách cấp tiền trực tiếp cho khách hàng.
- Tín dụng bằng hiện vật: thông qua việc ngân hàng mua 1 tài sản và
cho khách hàng được sử dụng bằng 1 hợp đồng
1.1.1.2.6. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả tiền vay:
Phân chia thành tín dụng trả góp và tín dụng thanh toán 1 lần:
- Tín dụng trả góp được thực hiện trong lĩnh vực tiêu dùng là chủ yếu,
qui định từng kỳ hạn khách hàng phải trả trong từng lần với số tiền giống
nhau.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Tín dụng thanh toán 1 lần: Nguồn thu chủ yếu của người vay phụ
thuộc chủ yếu vào chu kỳ sản xuất ( cuối mỗi chu kỳ)
1.1.1.2.7. Căn cứ vào đảm bảo tiền vay:
Chia tín dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm
- Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức tín dụng mà trước khi ngân hàng
thực hiện việc cho vay đối với khách hàng phải sử sụng 1 khoản bảo đảm
cho 1 khoản tiền vay
- Tín dụng không có bảo đảm: Khi cho vay ngân hàng không yêu cầu
khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ đảm bảo cho khoản tiền vay.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng Ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với
toàn bộ nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động
công nghiệp, thương nghiệp và nông nghiệp của đất nước. Cung ứng
vốn ngân hàng đã gián tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội. Tất cả giai
đoạn của quá trình kinh tế : sản xuất - phân phối - tiêu dùng đều cần
phải có vốn. Có thể nói tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực
hiện toàn bộ quá trình kinh tế cho đến khi sản phẩm đến tay người
tiêu dùng.
Do thu nhập của nhà nước không phải lúc nào cũng tương ứng
với các khoản chi, đòi hỏi phải tạm thời vay nợ các ngân hàng thương
mại- Việc cung cấp tín dụng cho chính phủ trong những trường hợp
như vậy đã đảm bảo cho các hoạt động của chính phủ được trôi chảy.
Tín dụng Ngân hàng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội. Trong hoạt động kinh doanh tín dụng
bằng các nghiệp vụ cụ thể Ngân hàng đã huy động tối đa được các nguồn
vốn nhàn rỗi trong tổ chức kinh tế, dân cư và sử dụng linh hoạt các nguồn
đó để đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức kinh tế, cá nhân để đầu tư sản
xuất-kinh doanh trên cơ sở có cam kết và thực hiện đầy đủ các điều kiện vay
vốn của Ngân hàng.
Nguyễn Hữu Thắng Lớp Tài Chính 46Q
Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy mở rộng sản xuất
kinh doanh và mối quan hệ giao lưu quốc tế. Ngày nay trong xu thế quốc tế
hóa, việc phát triển kinh tế của một quốc gia không chỉ bó hẹp trong phạm
vi của đất nước mình mà hòa nhập với sự phát triển của khu vực và thế giới.
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng tín dụng
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong quá trình mở rộng xuất-nhập khẩu,
giao lưu thương mại và khoa học kỹ thuật, điều này đồng nghĩa với việc tín
dụng Ngân hàng đã đóng vai trò quyết định trong việc cấp tín dụng cho nền
kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là công cụ cực kỳ quan trọng trong việc điều tiết
nền kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, góp phần thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế, chống lạm phát, thu hẹp khoảng cách giữa
người giàu và người nghèo trong xã hội.
1.2. Chất lượng tín dụng và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín
dụng.
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng.
Tín dụng là một hoạt động chính và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho
Ngân hàng thương mại, song cũng là một hoạt động rất phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro. Trong hoạt động tín dụng nếu người cán bộ tín dụng mà
chủ quan, duy ý trí sẽ rất dễ mang lại những tổn thất lớn cho Ngân hàng và
có thể làm cho Ngân hàng đi đến phá sản. Do vậy, để Ngân hàng ra quyết
định cho vay đúng đắn thì trước tiên cán bộ tín dụng cần hiểu rõ về khách
hàng, am hiểu về thị trường và thực hiện tốt những nội dung cơ bản mang
tính nguyên tắc của hoạt động tín dụng Ngân hàng nhằm ngăn ngừa và giảm
thiểu rủi ro - muốn vậy phải nâng cao chất lượng tín dụng. Đề cập đến vấn
đề chất lượng tín dụng không phải là điều mới mẻ nhưng là vấn đề quan tâm
hàng đầu của Ngân hàng thương mại.
Chất lượng tín dụng phải được hiểu theo hai khía cạnh đó là: hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Vốn vay của Ngân hàng được khách hàng sử
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dụng đưa vào quá trình sản xuất-kinh doanh, dịch vụ sau một chu kỳ sẽ tạo
ra số tiền lớn hơn số tiền ban đầu. Số tiền này khách hàng dùng để trang trải
các chi phí ban đầu bỏ ra và hoàn trả nợ vay Ngân hàng gồm cả gốc và lãi,
đồng thời còn dành được một phần lợi nhuận. Về mặt xã hội, thông qua hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ sẽ tạo ra công ăn việc làm, hạn chế các tệ
nạn xã hội phát sinh, thúc đẩy kinh tế trên địa bàn phát triển.
Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại được hình thành và
đảm bảo từ 2 phía là từ Ngân hàng và từ khách hàng.
1.2.1.1. Về phía Ngân hàng: trước khi cho vay, Ngân
hàng phải cân nhắc vừa đảm bảo không vi phạm luật Ngân hàng, các qui
trình nghiệp vụ vừa giải quyết được đầu ra và có hiệu quả. Đây là một vấn
đề khó trong quá trình thực hiện, vì vậy khi quyết định cho vay đòi hỏi Ngân
hàng cần phải nghiên cứu, thẩm định kỹ, nắm bắt được thông tin về khách
hàng vay vốn, tiền vay được sử dụng vào mục đích gì? được sử dụng như
thế nào ? khả năng sử dụng số tiền vay đó ra sao và có hiệu quả không?
1.2.1.2. Về phía khách hàng: Nếu như khách hàng hoạt động
kinh doanh có hiệu quả thì Ngân hàng sẽ nhanh chóng thu hồi được phần
gốc và lãi khoản vốn mà Ngân hàng đã cho vay, ngược lại doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ không có khả năng trả
nợ, số nợ vay Ngân hàng quá hạn tăng lên và sẽ có thể dẫn đến Ngân hàng
không có khả năng thu hồi vốn. Vì vậy nếu các doanh nghiệp, tổ chức kinh
tế, cá nhân có trình độ quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, hiệu quả
kinh doanh cao, bảo tồn và phát triển được vốn thì chất lượng đầu tư tín
dụng Ngân hàng sẽ cao và ngược lại.
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho
vay”. Do đó hoạt động tín dụng Ngân hàng đòi hỏi chất lượng ngày càng
được nâng cao vì nó giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của
Ngân hàng.
Nguyễn Hữu Thắng Lớp Tài Chính 46Q
Khác với xí nghiệp kinh doanh khác, Ngân hàng thương mại tiến hành
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Nếu như “đầu vào” của các xí nghiệp sản
xuất tồn tại dưới hình thức vật chất như các tư liệu sản xuất và “đầu ra” là
hàng hoá thì trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại"đầu vào” là tiền
và “đầu ra” cũng là tiền. Như vậy vốn đóng vai trò quyết định trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng, số vốn huy động được không thể để nằm
đọng tại két Ngân hàng mà Ngân hàng phải tiến hành cho vay đối với các
nhu cầu của xã hội sao cho có hiệu quả nhất nhằm thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, mang lại lợi nhuận cho các nhà sản xuất kinh doanh và tạo
ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đồng thời nó cũng mang lại lợi nhuận cho bản
thân Ngân hàng và bảo toàn được vốn.
Tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh, các Ngân hàng gặp rất nhiều
tổn thất, rủi ro lớn. Trong thập kỷ trước chúng ta đã phải chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực (7/1997). Dẫn đến sự khủng
hoảng và phá sản của hàng loạt các Ngân hàng ở những nước có hệ thống
Ngân hàng phát triển như: Hàn Quốc,Thái Lan,Malayxia Những năm gần
đây tuy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đã dần hồi phục và có nhiều
động thái tích cực, song vẫn gặp phải nhiều khó khăn như tình hình thời tiết
mấy năm qua diễn biến thất thường: lũ lụt ở miền Trung, đồng bằng sông
Cửu Long, hạn hán ở Tây Nguyên, và nhiều thách thức như 1/11/2006 Việt
Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO) đánh dấu bước
khởi đầu trong sự cạnh tranh thương mại toàn cầu trong đó có ngành Ngân
Hàng, đi kèm với tình hình lạm phát tăng tiến nhanh từ 2004( hiện nay tính
đến cuối 2007, lạm phát đã là 12,6%) đã làm cho chất lượng tín dụng bị
giảm sút nghiêm trọng, thiệt hại không những ngành ngân hàng phải gánh
chịu mà nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đối với hoạt động kinh doanh
Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một đòi hỏi khách quan và là vấn
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đề vô cùng quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà là vấn đề quan tâm
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá và phân loại chất lượng tín dụng
Hiện nay chất lượng tín dụng Ngân hàng được đánh giá qua 2 nhóm
chỉ tiêu: nhóm chỉ tiêu định tính và nhóm chỉ tiêu định lượng.
1.2.3.1. Nhóm chỉ tiêu định tính:
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá việc chấp hành các văn bản pháp
quy như: luật Ngân hàng và luật các tổ chức tín dụng, các qui chế, qui trình
nghiệp vụ, chế độ thể lệ tín dụng và các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng
cũng như của Chính phủ trong quá trình thực hiện qui trình cho vay, Việc
thực thi các văn bản này phụ thuộc vào trình độ năng lực chuyên môn và
tinh thông nghiệp vụ của CBTD, năng lực chỉ đạo điều hành của người quản
lý.
Khi cho vay Ngân hàng phải tuân thủ các nguyên tắc tín dụng đó là:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
- Phải được hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận
trong hợp đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện theo qui định của chính phủ và
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Đồng thời cũng phải tuân thủ 2 điều kiện cho vay:
- Về mặt pháp lý, là điều kiện liên quan đến việc ràng buộc người vay
theo luật định.
- Về kinh tế, là điều kiện ràng buộc trách nhiệm khách hàng về phương
diện tài chính và là điều kiện liên quan đến tính toán cho vay, thu nợ của
ngân hàng.
Các nguyên tắc, điều kiện tín dụng là những yêu cầu bắt buộc không
thể thiếu được. Thực tế cho thấy một trong các nguyên tắc, điều kiện ấy bị
Nguyễn Hữu Thắng Lớp Tài Chính 46Q
coi nhẹ thì sẽ dễ dẫn đến tình trạng khách hàng sử dụng vốn vay sai mục
đích, không quan tâm hiệu quả đầu tư
Hoạt động kinh doanh của khách hàng kém hiệu quả,
thua lỗ mất khả năng thanh toán Nhóm chỉ tiêu định lượng nhằm
đánh giá chất lượng tín dụng được thể hiện qua việc chấp hành các chỉ tiêu
cụ thể trên cơ sở so sánh số thực tế với con số giới hạn cho phép mà các văn
bản đã đề ra. Thông qua các chỉ tiêu đó đánh giá được thực trạng chất lượng
tín dụng của Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng tín dụng của một Ngân
hàng người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau đây.có thể dẫn đến phá
sản. Nợ quá hạn phát sinh dẫn đến chất lượng tín dụng Ngân hàng giảm sút
và có thể dẫn tới mất vốn.
1.2.3.2. Nhóm chỉ tiêu định lượng.
- Khối lượng tín dụng và tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng qua các
năm của chi nhánh:
+ Doanh số cho vay
+ Doanh số thu nợ
+ Dư nợ
+ Cơ cấu dư nợ: Dư nợ theo thời gian; Dư nợ theo thành phần kinh tế;
Dư nợ theo ngành kinh tế
- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng:
+ Vòng quay vốn tín dụng = Tổng doanh số trả nợ / Dư nợ bình quân
+ Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / tổng dư nợ CV của tổ chức tín
dụng.
Đây là chỉ tiêu phản ánh thực trạng chất lượng tín dụng của tổ chức tín
dụng, song cũng cần phải đi sâu xem xét phân loại nợ quá hạn để đánh giá
thực chất của các khoản nợ quá hạn.
Phân loại NQH theo thời gian: Đến 6 tháng; từ 6 tháng đến 12 tháng;
trên 12 tháng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phân loại NQH theo nguyên nhân: Khách quan; chủ quan của khách
hàng; chủ quan của ngân hàng
Phân loại NQH theo khả năng thu hồi: khả năng thu hồi 100%; khả
năng thu hồi một phần; không có khả năng thu hồi.
Ngoài ra còn sử dụng 1 số các chỉ tiêu để phân tán, phòng ngừa và hạn
chế rủi ro như:
+ Giới hạn cho vay đối với 1 khách hàng của tổ chức tín dụng: không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.
+ Các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng: tỷ
lệ cho vay tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung dài
hạn; tỷ lệ về khả năng chi trả; tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Qua 2 nhóm chỉ tiêu ta thấy việc đánh giá chất lượng tín dụng thông
qua các chỉ tiêu định tính là đánh giá việc tuân thủ qui trình cho vay, các văn
bản pháp quy mà nhà nước, ngành ngân hàng ban hành. Việc thực hiện tuỳ
thuộc vào trình độ nhận thức, ý thức chấp hành thể lệ tín dụng, tuân thủ qui
trình cho vay của Ngân hàng.
Đối với nhóm chỉ tiêu định lượng, việc đánh giá chất lượng tín dụng
thông qua các chỉ tiêu định lượng có nhiều thuận lợi hơn, việc đánh giá chủ
yếu so sánh các số liệu thực tế với kế hoạch, năm nay so với năm trước, với
các tỷ lệ và các chỉ tiêu giới hạn, mà các văn bản đã quy định.
1.2.4. Các nguyên tắc đảm bảo an toàn tín dụng
- Chất lượng tín dụng quan trọng hơn mở rộng tín dụng: nên nhớ"bất
kỳ một thằng ngốc nào cũng có thể cho vay tiền nhưng để thu được nợ thì
lại cần một cái đầu thông minh". Ngân hàng không kinh doanh, cho vay theo
hình thức rủi ro mạo hiểm, bởi nếu làm như vậy thì ngân hàng phải trả cho
những người gửi tiền một lãi suất cao hơn rất nhiều để có thể đền bù lại khả
năng mất mát đối với các khoản tiền gửi của họ.
Ngân hàng không thể nào thu được khoản phí đủ để bù lại các khoản
mất mát trong cho vay. Nhưng đôi khi trong quá trình cho vay chúng ta rất
Nguyễn Hữu Thắng Lớp Tài Chính 46Q
dễ bỏ qua nguyên tắc về chất lượng tín dụng. Tình trạng này cũng nguy
hiểm chẳng khác gì một thương gia kinh doanh mà không nghĩ đến lãi.
- Ngay từ đầu, tất cả các khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ
tách biệt: Phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, phương án hai là dự
phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì khách hàng phải lấy tài
sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ.
- Phẩm chất đòi hỏi đối với người vay tiền là phải hoàn toàn trung
thực: Nếu ngân hàng còn nghi ngờ sự trung thực, tư cách đạo đức hoặc ý
định của người đi vay thì tốt nhất là không nên tiến hành cho vay. Vì vậy
ngân hàng phải kiểm tra đạo đức nghề nghiệp cũng như cách thức kinh
doanh của người đi vay trước khi đi vào đàm phán.
- Nếu như không hiểu rõ về khách hàng thì đừng quyết định cho vay:
Trước khi quyết định cho vay phải phân tích đánh giá chính xác khách hàng
về:
+ Năng lực pháp lý
+ Năng lực phẩm chất của người điều hành
+ Năng lực tài chính
+ Năng lực kinh doanh, môi trường kinh doanh
+ Tài sản đảm bảo.
- Việc có cho vay tiền hay không là quyết định của ngân hàng, ngân
hàng phải cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi ra quyết định cho vay: Việc có
cho vay tiền hay không là một quyết định mang tính độc lập. Mỗi cán bộ tín
dụng phải có sự nhậy cảm và khả năng đánh giá chính xác, các quyết định
trong mỗi giao dịch phải là quyết định của riêng mình và không hề chịu ảnh
hưởng bởi những người liên quan.
- Mục tiêu của khoản tiền cho vay phải hàm chúa cơ sở việc trả nợ:
Việc thẩm định các dự án là rất quan trọng, vì nếu dự án đầu tư phát huy
hiệu quả thì việc trả nợ sẽ rất thuận lợi. Mặt khác các khoản cho vay ngắn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét