Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014
TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI
4
kỹ thuật rất phức tạp, đặc biệt là việc thiết lập các chứng từ giao dịch. N ghiên cứu sẽ
không đi sâu phân tích khía cạnh kỹ thuật của các nghiệp vụ này.
1.1.2. Phân loại nợ nước ngoài
Phân loại nợ nước ngoài trước hết phải dựa trên luồng vốn vào để nắm được
tính chất, cơ cấu của từng loại vốn, từ
đó lựa chọn cơ cấu phù hợp đáp ứng nhu cầu
tăng trưởng ổn định, giúp quản lý nợ nước ngoài hiệu quả hơn.
1.1.2.1. Cơ cấu dòng vốn vào
Dòng vốn vào một quốc gia có cấu trúc như trong hình 1.1
Nguồn: [48]
Hình 1.1
. Cơ cấu dòng vốn vào
Dòng vốn vào
Tài trợ phát triển chính thức Vốn tư nhân
Viện trợ phát triển
Chính thức
Tài trợ phát triển
Chính thức khác
Đầu tư
Trực tiếp
N ước ngoài
Đầu tư
tài chính
(TP,CP&
P.Sinh)
Vay tư
nhân
Viện trợ
không
hoàn lại
Viện trợ
có
hoàn lại
Vay thương mại
Tín dụng thương mại
5
Trong đó, tài trợ phát triển chính thức (ODF) thường là luồng vốn ưu đãi (lãi
suất thấp, thời hạn vay dài, thời gian ân hạn dài) đầu tư vào cơ sở hạ tầng sản xuất và
xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và thu hút đầu tư ở nước tiếp
nhận. Trong luồng tài trợ phát triển chính thức, viện trợ phát triển chính thức (ODA)
chiếm tỷ trọng cao.
Luồng vốn tư nhân đổ vào các nước đang phát triển thường dưới dạng: (i) đầu
tư trực tiếp, (ii) đầu tư chứng khóan, (iii) khoản cho vay tư nhân khác như cho vay
thương mại, tín dụng thương mại và (iv) các khoản chuyển vốn của các tổ chức phi
chính phủ.
Đầu tư trực tiếp (FDI) là đầu tư để nắm giữ quyền quản lý lâu dài (thông
thường 10% cổ
phiếu có quyền bỏ phiếu) tại một công ty ở một quốc gia khác với
quốc gia của nhà đầu tư. Đầu tư trực tiếp gồm ba phần: vốn chủ sở hữu, tái đầu tư từ
lợi nhuận để lại và các khoản vay ngắn hạn và dài hạn. N hư vậy, vốn đầu tư trực tiếp ở
dạng vốn chủ sở hữ
u và tái đầu tư từ lợi nhuận để làm tăng tài sản của người nước
ngoài tại nước nhận vốn nhưng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở dạng vốn vay là
khoản nợ của pháp nhân nước nhận đầu tư đối với cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài.
Đầu tư tài chính hay còn gọi là danh mục đầu tư là dạng mua chứng khóan nợ,
chứng khoán cổ
phần hoặc các công cụ phát sinh. Danh mục đầu tư là tổng các nguồn
quỹ tài trợ quốc gia, biên nhận tiền gởi và trực tiếp mua các cổ phần bởi nhà đầu tư
nước ngoài. N ếu việc mua cổ phiếu được thực hiện theo các đầu cơ vốn ngắn hạn có
thể thúc đNy thị trường tài chính vận hành và cũng có thể tạo nên những cú sốc kinh tế.
Khoản cho vay tư nhân g
ồm (i) khoản vay thương mại: vay theo điều kiện của
thị trường tiền tệ quốc tế (không được ưu đãi), (ii) khoản tín dụng thương mại: khoản
vay giữa các doanh nghiệp với nhau thường liên quan đến mua bán hàng hóa trả chậm,
(iii) khoản chuyển vốn của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài dưới dạng viện trợ
tài chính hoặc hiện vật thông qua việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ. N
hững khoản
này thường rất khó có số liệu thống kê chính thức và với lãi suất thương mại của các
khoản vay, nếu không sử dụng hợp lý rất dễ trở thành gánh nặng về nợ nước ngoài của
quốc gia trong tương lai.
6
1.1.2.2. Phân loại nợ nước ngoài
Phân loại các khoản nợ vay nước ngoài chủ yếu căn cứ vào các tiêu chí khác
nhau giúp cho công tác theo dõi, đánh giá và quản lý nợ có hiệu quả.Cách phân loại
chủ yếu đối với nợ nước ngoài của một quốc gia là phân loại theo phạm vi phát hành.
- Phân loại theo điều kiện vay: ưu đãi và không ưu đãi. Theo định nghĩa của Ủy
Ban Hỗ trợ phát triển, khoản vay ưu đ
ãi là khoản vay trong đó yếu tố viện trợ từ 25%
trở lên; yếu tố viện trợ của một khoản vay là giá trị cam kết của nó trừ đi giá trị dịch
vụ nợ phải thanh toán theo hợp đồng (tính bằng giá trị hiện tại với suất chiết khấu theo
thống lệ là 10%) và ngược lại là khoản vay không ưu đãi.
- Phân loại theo thời hạn vay: ngắn hạn và dài hạn.
N ợ ngắn hạn từ 1 năm trở
xuống và nợ dài hạn trên 1 năm. N ợ ngắn hạn là những khoản nợ có ảnh hưởng trực
tiếp đến tình hình thanh khoản của quốc gia và có khả năng gây ra khủng hoảng kinh
tế như kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng ở Châu Á năm 1997 vừa qua. Do vậy, cần
phải điều chỉnh đến mức thấp nhấ
t những khoản nợ ngắn hạn để giảm bớt áp lực thanh
toán và những tác động tiêu cực lên nền kinh tế khi có sự rút lui đột ngột các luồng
vốn ngắn hạn.
- Phân loại theo chủ thể đi vay: nợ chính thức (khu vực công) và nợ tư nhân
(khu vực tư). N ợ chính thức hay nợ Chính phủ bao gồm nợ của các tổ chức N hà nước
(đối với một liên bang thì gồm c
ả nợ của các bang trong liên bang) và nợ của cơ quan
hành chính, tỉnh, thành phố. N goài ra, các khoản nợ của khu vực tư nhân do N hà nước
hoặc tổ chức chính thức bảo lãnh cũng được coi là nợ chính thức vì chính phủ của
nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho nước cho vay trong trường hợp tổ
chức đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết trong hợp đồ
ng. Tuy nhiên,
trong trường hợp chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp vỡ nợ thì nghĩa vụ nợ
bất thường có thể đè lên vai chính phủ trung ương, tùy thuộc vào điều khoản được quy
định trong luật lệ về vay mượn hoặc trong bối cảnh khủng hoảng. Trong khi đó các
khoản nợ do doanh nghiệp trực tiếp vay mượn hoặc do chính quyền địa phương mượn
không được bảo lãnh của Chính ph
ủ trung ương là nợ tư nhân. N ợ tư nhân thường là
7
nợ trên thị trường trái phiếu, nợ ngân hàng thương mại và các tư nhân khác. Chính vì
vậy, nợ chính thức và nợ tư nhân phải được phân tích riêng vì có những yếu tố ảnh
hưởng khác nhau và Chính phủ cũng phải tính đến các khoản nợ dự phòng cho các
nghĩa vụ nợ bất thường.
- Phân loại theo chủ thể cho vay: nợ đa phương và nợ song phương. N ợ đa
phương đến chủ yế
u từ các cơ quan của Liên hợp quốc, N gân hàng Thế giới, Quỹ Tiền
tệ Quốc tế, các ngân hàng phát triển khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và
liên Chính phủ. Trong khi đó, nợ song phương đến từ Chính phủ một nước như các
nước thuộc OECD
và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một
Chính phủ duy nhất dưới các dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài
Khác với nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng, nợ quốc gia
nói chung rất được các nhà quản lý quan tâm vì nợ nước ngoài không chỉ liên quan đến
thực trạng nền kinh tế, khả nă
ng trả nợ mà còn liên quan đến khả năng thu hút các
nguồn lực tài chính từ bên ngoài phục vụ cho các mục tiêu vĩ mô của nhà nước. Các
chỉ số đánh giá nợ nước ngoài được xây dựng thành hệ thống nhằm xác định mức độ
nghiêm trọng của nợ nước ngoài đối với an ninh tài chính quốc gia. Cũng cần phải xác
định lại là các chỉ tiêu đánh giá chung về nợ nước ngoài, trong đó nợ nước ngoài của
Chính ph
ủ là chủ yếu, còn nợ của khu vực tư nhân hầu như không đáng kể.
1.1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài
Để xếp loại các con nợ theo mức độ nợ, N gân hàng thế giới sử dụng các chỉ số
đánh giá mức độ nợ nần của các quốc gia vay nợ như ở bảng 1.1:
8
Bảng 1.1: Tiêu chí đánh giá mức độ nợ nước ngoài
Chỉ số Mức độ
trầm trọng
Mức độ
khó khăn
Mức độ
bình thường
1. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với GDP
≥ 50%
30 – 50%
≤ 30%
2. Tỷ lệ % tổng nợ nước ngoài so với kim
ngạch xuất khNu hàng hóa và dịch vụ
≥ 200%
165 – 200%
≤ 165%
3. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch
xuất khNu hàng hóa và dịch vụ
≥ 30%
18 – 30%
≤ 18%
4. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả nợ so với kim ngạch
xuất khNu hàng hóa và dịch vụ so với
GDP
≥ 4%
2 – 4%
≤ 2%
5. Tỷ lệ % nghĩa vụ trả lãi so với kim ngạch
xuất khNu hàng hóa và dịch vụ
≥ 20%
12 – 20%
≤ 12%
Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ
nợ nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ để
các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay
nợ cho quốc gia.
Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả n
ợ
thường được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng
trả nợ của các quốc gia trong trung và dài hạn. Các chỉ tiêu thường dùng:
* Khả năng hòan trả nợ vay nước ngoài (EDT/XGS)
- Tổng nợ / Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn
tỷ lệ nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ
được chính phủ bảo lãnh trên thu nhập
xuất khNu hàng hóa và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn
thu xuất khNu hàng hóa và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để
trả nợ nước ngoài. N hững vấn đề khi sử dụng chỉ tiêu này là: N guồn thu xuất khNu dễ
biến động từ năm này sang năm khác, ngoài ra cũng có nh
ững phương án khác để
nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất
9
khNu. Ví dụ cắt giảm nhu cầu nhập khNu hay giảm nguồn dự trữ ngoại hối. Chỉ tiêu
này ở các nước Đông Á Thái Bình Dương ngày càng giảm dần cho thấy khả năng trả
nợ bằng thu nhập xuất khNu đang trở nên khó khăn, cần phải có những nguồn thu khác
để bù đắp.
* Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia (EDT/GNI )
- Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc
dân được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước
ngoài. Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ
hoặc sử dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy,
tình trạng nợ có thể không
được đánh giá đúng mức.
*Tỷ lệ trả nợ ( TDS/XGS )
- Tổng nợ phải trả hàng năm / Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch
vụ nợ (nợ gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khNu). Đây là một tiêu chí quan
trọng, phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khNu hàng hóa
và dịch vụ
của quốc gia đi vay.
Tháng 9 năm 2000, Hiệp định cơ cấu lại nợ cho các quốc gia có đồng tiền
không khả năng chuyển đổi đã làm cho mức nợ của các nước này giảm đi đáng kể do
đó chỉ số TDS/XGS đang tăng từ sau cuộc khủng khoảng Châu Á thì giảm xuống từ
năm 2000.
*Tỷ lệ trả lãi (INT / XGS )
- Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạ
ch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch
vụ lãi hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khNu. Một quốc gia phải
thanh toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi
này được trích từ thu nhập xuất khNu. Quốc gia mắc nợ trong quá khứ thì hiện tại và
tương lai họ sẽ trích thu nhập từ xuất khNu càng nhiều, hạn chế
khối lượng ngoại tệ
dành cho nhập khNu. Đây là chỉ tiêu tốt nhất để đánh giá nợ vì không chỉ đề cập đến
gánh nặng nợ mà còn chỉ ra chi phí vay nợ, điều này ngầm hiểu như hiệu quả sử dụng
vốn vay có cao hơn chi phí lãi vay hay không.
10
* Tiềm năng trả lãi (INP/GNI )
- Lãi/GNI: Tổng lãi phải trả so với GN I, phản ánh tiềm năng trả lãi của nước đi
vay. Ở các nước khu vực Châu Á, trong đó có Việt N am, chỉ số này rất thấp, chỉ chưa
đến 1,5%, điều này cho thấy tính khả quan trong việc trả nợ của các nước này.
*Tỷ lệ % dự trữ ngoại hối so với tổng n
ợ (RES/EDT )
-Tổng dự trữ ngoại hối / Tổng nợ (%): Chỉ số này thể hiện khả năng của nước
con nợ có thể dùng dự trữ ngoại hối để trả nợ nước ngoài.
Dựa vào các chỉ số trên, các tổ chức tài chính quốc tế có thể đánh giá mức độ
nợ nần và khả năng tài trợ cho các nước thành viên. Các chỉ số này cũng là căn cứ
để
các quốc gia vay nợ tham khảo, xác định tình trạng nợ để hoạch định chiến lược vay
nợ cho quốc gia.
1.1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay
nợ. Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ
nợ song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:
- Nợ ngắn hạn / Tổng nợ: Phả
n ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong
thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn.
- Nợ ưu đãi / Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ.
- Nợ đa phương / Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích
hỗ trợ, ít mưu cầu v
ề lợi nhuận, do đó việc tăng tỳ trọng nợ đa phương trong tổng nợ
phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt.
1.2. Quản lý nợ nước ngoài
1.2.1. Khái niệm về quản lý nợ nước ngoài
Theo nghĩa hẹp, quản lý nợ bao hàm việc khống chế mức gia tăng nợ trong
quan hệ tỷ lệ với năng lực tă
ng trưởng GDP và tăng trưởng xuất khNu của đất nước,
hay nói cách khác, giữa mức nợ nước ngoài tương ứng với năng lực trả nợ của một
nước. Cụ thể hơn là giảm mức nợ gốc, nợ lãi phải trả cho tương xứng khả năng kinh tế
của nước vay nợ và tránh nợ chồng chất vượt quá mức vay nợ thận trọng củ
a quốc gia,
đảm bảo khả năng thanh toán của quốc gia.
11
Xét theo nghĩa rộng, việc quản lý nợ nước ngoài hàm chứa trong nó hệ thống
điều hành vĩ mô sao cho vốn nước ngoài được sử dụng có hiệu quả và không gia tăng
đến mức vượt quá khả năng thanh toán để không làm tích lũy nợ. Hay nói cách khác,
quản lý nợ nước ngoài là bảo đảm một cơ cấu vốn vay thích hợp với các yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, thực hiện phân bố vố
n một cách hợp lý và kiểm soát động thái nợ
và sự vận hành vốn vay .
Theo cách hiểu chung của cộng đồng tài chính quốc tế “quản lý nợ nước ngoài
là một phần của công tác quản lý nền kinh tế vĩ mô. N ó bao gồm việc hoạch định, triển
khai, duy trì và từ bỏ các khoản nợ nước ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho tăng
cường kinh tế, giảm tình trạng đ
ói nghèo và tiếp tục duy trì sự phát triển mà không tạo
ra những khó khăn trong thanh toán”.
N hư vậy, quản lý nợ nước ngoài không tách rời khỏi quản lý chính sách vĩ mô,
với quản lý ngân sách N hà nước, dự trữ quốc tế và cán cân thanh toán. Quản lý nợ
nước ngoài hiệu quả đòi hỏi cả chính sách tốt và thể chế mạnh nhằm điều hành và phối
hợp các hoạt động vay mượn. Quản lý nợ n
ước ngoài không đơn thuần là vay và trả
mà phải là vay và trả sao cho đảm bảo nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn
định trong phát triển kinh tế và tương xứng với khả năng thanh toán của nền kinh tế.
1.2.2. Nội dung quản lý nợ nước ngoài
Quản lý nợ bao gồm khía cạnh kỹ thuật và khía cạnh thể chế. Khía cạnh kỹ
thuật tập trung vào định mức nợ nước ngoài cần thiế
t và đảm bảo các điều khoản và
điều kiện vay mượn sao cho phù hợp với khả năng trả nợ trong tương lai. Khía cạnh kỹ
thuật gồm hai phần chính: quản lý quy mô, cơ cấu nợ và giám sát, duy trì thông tin nợ.
Khía cạnh thể chế liên quan đến khía cạnh luật pháp, sắp xếp thể chế, chức năng nhiệm
vụ mà các cơ quan quản lý nợ phải đảm nhiệm. N ội dung quản lý n
ợ được sơ đồ hóa
trong hình 1.2
12
Hình 1.2: Sơ đồ nội dung quản lý nợ
1.2.2.1. Kỹ thuật quản lý nợ nước ngoài
Quản lý quy mô và cơ cấu nợ nước ngoài
Việc quản lý quy mô, cơ cấu nợ nước ngoài hiệu quả nhằm xác định một cơ cấu
vay hợp lý, giảm gánh nặng trả nợ tập trung tại một thời điểm, đảm bảo khả năng
thanh toán các khoản nợ sắp đến hạn. Quản lý quy mô và cơ cấu nợ bao g
ồm bốn vấn
đề trong đó ba yếu tố then chốt và gắn kết với nhau chặt chẽ nhất là khả năng trả nợ,
nhu cầu vay mượn và nguồn tài trợ. Cả ba vấn đề này đều thể hiện tính kế hoạch hóa
của việc vay mượn.
- Nhu cầu vay mượn, được xây dựng phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô để
đảm bảo sử dụng vốn vay theo đúng
định hướng ưu tiên phát triển kinh tế đã đề ra.
N hu cầu vay mượn liên quan đến việc dự đoán các hoạt động kinh tế thể hiện trong các
giao dịch của cán cân thanh toán, thu chi ngân sách và tiết kiệm, đầu tư. Các dự đoán
này phải dựa trên những giả định về tình hình kinh tế trong nước và ngoài nước. Dựa
trên các giả định sai thường dẫn đến những đánh giá sai về nhu cầu vay mượn do vậy
Quản lý quy mô và cấu nợ
Nhu cầu vay mượn
Khả năng trả
N guồn tài trợ
Quản lý danh mục nợ
Quản lý nợ
Khía cạnh
kỹ thuật
Giám sát và duy trì thông tin nợ
Khía cạnh
Thể chế
Khía cạnh pháp lý
Chức năng nhiệm vụ
13
cần thận trọng trong việc đưa ra các giả định. N goài ra, nhu cầu vay mượn cần phải
được xây dựng dựa trên khả năng trả nợ tương lai Trong đó đặc biệt quan tâm đến khả
năng chịu đựng của cán cân thanh toán của Jaime de Pines và giới hạn bội chi ngân
sách để đảm bảo vay mượn của ngân sách.
- Khả năng trả nợ, liên quan đến việc phân tích dư nợ hiệ
n tại, luồng trả nợ
trong tương lai trong mối quan hệ với tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Tác động
bên trong của một quốc gia như: tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm đầu tư, tốc độ tăng
trưởng xuất khNu, nhu cầu nhập khNu, những thay đổi dự kiến trong mức dự trữ quốc
tế trong trung hạn, mức độ ổn định chính trị và các chính sách của quốc gia. Tác
động
bên ngoài như: môi trường kinh tế đối ngoại mà quốc gia phải đối mặt hoặc những rủi
ro có thể làm cho các dự đoán trở nên sai biệt như sự thay đổi trong lãi suất thế giới,
biến động giá cả thế giới, tỷ giá hối đoái, kỳ vọng của những người cho vay.
- Nguồn tài trợ, các khoản vay sẽ được cung cấp bởi phần viện trợ không hoàn
l
ại, cho vay ưu đãi hay vay thương mại. Các nguồn tài trợ khác nhau đòi hỏi cách thức
quản lý khác nhau để sử dụng hiệu quả nhất nguồn tài trợ. Các quốc gia phải cân nhắc
về nguồn vay, quy mô vay từ mỗi nguồn. Thông thường, các quốc gia đang phát triển
ưu tiên lựa chọn những khoản vay ưu đãi, tận dụng tối đa các nguồn viện trợ không
hoàn lại và giảm đến mức t
ối đa các nguồn vốn không ưu đãi. Một phần do cơ hội tiếp
cận các nguồn vay thương mại hạn chế, phần khác do muốn khai thác triệt để lợi thế
của nước nghèo. N goài ra khi tìm nguồn tài trợ phải đặc biệt quan tâm đến các nguyên
tắc lựa chọn dự án. Trước đây ở các nước đang phát triển, việc tài trợ cho các dự án
kém hiệu quả và không khả thi đ
ã làm gia tăng gánh nặng nợ nhanh chóng. Do vậy,
trong việc ra quyết định vay mượn, lựa chọn đúng các dự án và chương trình cần tài
trợ vốn là đặc biệt quan trọng. Một chương trình đầu tư công cần thể hiện quan điểm
ủng hộ việc lựa chọn dự án cần tài trợ thông qua việc xây dựng các tiêu chí đánh giá
dự án. Trước hết, chương trình phải tương thích với chính sách phân bổ nguồn lự
c của
Chính phủ, những điều kiện vay mượn và các dự đoán về mức độ nợ của quốc gia. Kế
đến cần lưu ý một số tiêu chuNn: (i) dự án phải phù hợp với ưu tiên quốc gia và chiến
lược ngành; (ii) nguồn thu của dự án phải đủ bù đắp chi phí, tỷ lệ hoàn vốn dự kiến
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét