5
kinh Ðại Tập thì đà-ra-ni là tông. Nay Quán kinh đây lấy Quán Phật Tam Muội làm
tông. Nếu bàn về những sự được quán thì chẳng ngoài hai thứ là chánh báo và y báo, ở
phần dưới sẽ căn cứ vào các phép quán để bàn định. Nếu chiếu theo kinh Quán Phật
Tam Muội thì:
“Phật bảo phụ vương:
- Chư Phật xuất thế có ba điều lợi ích:
a. Một là miệng nói mười hai bộ kinh là pháp thí lợi ích, trừ được vô minh ám chướng
của chúng sanh, [khiến họ] mở sáng con mắt trí huệ, được sanh nơi chư Phật, sớm đắc
Vô Thượng Bồ Ðề.
b. Hai là chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo. Nếu có
chúng sanh xưng niệm, quán sát dù là tổng tướng hay biệt tướng, chẳng luận là thân Phật
hiện tại hay quá khứ thì đều sẽ khiến cho chúng sanh trừ diệt được tứ trọng, ngũ nghịch,
mãi mãi thoát khỏi tam đồ, tùy lòng ưa muốn thường được sanh về Tịnh Ðộ cho đến khi
thành Phật.
c. Ba là khuyên phụ vương thực hành Niệm Phật tam muội.
Phụ vương bạch Phật:
- Vì nguyên nhân nào mà Phật chẳng dạy đệ tử thực hành Chơn Như Thật Tướng, Ðệ
Nhất Nghĩa Không của quả đức Phật địa?
Phật bảo phụ vương:
- Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới, thần thông giải thoát thâm diệu, chẳng
phải là cảnh giới để phàm phu tu hành được nổi! Vì thế, Phật khuyên phụ vương tu hành
Niệm Phật tam muội.
Phụ vương bạch Phật:
- Công năng niệm Phật có hình trạng như thế nào?
Phật bảo phụ vương:
- Như trong rừng Y Lan rộng đến bốn mươi do tuần có một hột Ngưu Ðầu Chiên Ðàn,
tuy có mầm mộng nhưng chưa mọc lên thì rừng Y Lan ấy chỉ hôi thối chẳng thơm. Nếu
có ai ăn phải hoa, trái [của cây Y Lan] thì phát cuồng mà chết. Lúc sau, rễ mầm của cây
Chiên Ðàn dần dần tăng trưởng, khi nó vừa sắp trở thành cây to thì mùi thơm đã nồng
sực, có thể biến đổi cả khu rừng ấy trở thành thơm tho. Chúng sanh trông thấy đều sanh
tâm hy hữu.
Phật bảo phụ vương:
- Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như vậy: chỉ cốt
có thể hệ niệm chẳng ngơi thì quyết định được sanh ở trước đức Phật; một phen được
6
vãng sanh sẽ có thể biến đổi hết thảy điều ác thành ra đại từ bi giống như loại cây thơm
tho kia biến đổi cả rừng Y Lan”.
Rừng Y Lan vừa nói đó ví cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội trong thân chúng
sanh. Nói Chiên Ðàn là ví cho tâm niệm Phật của chúng sanh. “Lúc vừa mới thành cây”
là nói hết thảy chúng sanh chỉ cần xưng niệm chẳng ngớt thì nghiệp đạo được hoàn
thành vậy.
Hỏi: Vì sao sức của một niệm lại có thể đoạn được hết thảy các chướng giống như
một cây có mùi thơm lại biến đổi được cả khu rừng Y Lan rộng đến bốn mươi do tuần
trở thành thơm tho?
Ðáp: Căn cứ theo các bộ kinh Ðại Thừa thì rõ ràng là Niệm Phật có công năng chẳng
thể nghĩ lường. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như có người dùng gân sư tử
làm dây đàn, tiếng đàn vừa tấu lên một lượt thì hết thảy các loại dây đàn khác đều bị đứt
tan. Nếu ai dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì hết thảy phiền não, hết thảy
các chướng đều bị đoạn diệt. Cũng như có người đem đổ lẫn hết thảy các loại sữa: bò,
dê, lừa, ngựa trong một đồ đựng; nếu đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào thì sữa sư tử sẽ
xuyên suốt qua không bị ngăn trở, hết thảy các thứ sữa khác thảy đều bị hư nát, biến
thành nước lã. Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì sẽ vượt qua
hết thảy các ác ma, các chướng không bị trở ngại”.
Kinh ấy lại còn dạy: “Ví như có kẻ dùng thuốc Nn thân du hành khắp nơi, hết thảy kẻ
khác chẳng thấy được kẻ ấy. Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội
thì hết thảy ác thần, hết thảy các chướng chẳng thấy được người ấy. Người ấy muốn đến
đâu cũng không ai ngăn cản được, huống hồ là có thể gây chướng! Vì sao như vậy?
Niệm Phật tam muội đây chính là vua của hết thảy các tam muội vậy”.
A5. Lược giảng về ý nghĩa ba thân, ba cõi
Hỏi: Thân đang hiện hữu của đức Phật A Di Ðà là thân gì? Cõi Cực Lạc là cõi gì?
Ðáp: Thân hiện hữu của đức Phật A Di Ðà là báo Phật (Báo Thân Phật), cõi báu trang
nghiêm Cực Lạc là báo độ. Từ xưa các sư đều truyền rằng A Di Ðà Phật là Hóa Thân,
cõi Cực Lạc cũng là hóa độ; đấy là một sai lầm lớn. Nếu đúng là như vậy thì uế độ cũng
là chỗ ở của Hóa Thân, Tịnh Ðộ cũng là chỗ Hóa Thân ở, chẳng biết Báo Thân của đức
Như Lai sẽ ở chỗ nào? Nay căn cứ vào kinh Ðại Thừa Ðồng Tánh để biện luận về tịnh,
uế, báo, hóa thì như kinh dạy: “Thành Phật trong cõi tịnh phải là Báo Thân. Thành Phật
trong cõi uế phải là Hóa Thân”.
Kinh ấy lại dạy: “Các đức Như Lai: A Di Ðà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh
Vương Như Lai, Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Ðức Như Lai hiện tại đắc đạo hoặc
sẽ đắc đạo trong các cõi Phật thanh tịnh. Các vị như vậy đều là Báo Thân Phật. Những vị
nào là Như Lai Hóa Thân? Như hiện tại Dũng Bộ Kiện Như Lai, Ma Khủng Bố Như
Lai… hết thảy các đức Như Lai như vậy hoặc là hiện tại thành Phật, hoặc sẽ thành Phật
trong đời uế trược: từ trời Ðâu Suất giáng hạ cho đến trụ trì hết thảy Chánh Pháp, hết
thảy Tượng Pháp, hết thảy Mạt Pháp… có các sự hóa hiện như thế đều là hóa Phật cả.
Những gì là Như Lai Pháp Thân? Chơn Pháp Thân của Như Lai vô sắc, vô hình, vô hiện,
7
vô trước, chẳng thấy được, chẳng nói được, không có trụ xứ, vô sanh, vô diệt. Ðó là ý
nghĩa thật sự của Pháp Thân”.
Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ, thế sao kinh Quán Âm Bồ Tát Thọ Ký chép:
“Sau khi Phật A Di Ðà nhập Niết Bàn, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ nối ngôi thành Phật?”
Ðáp: Ấy là Báo Thân thị hiện tướng Nn mất chứ chẳng phải là diệt độ. Kinh ấy chép:
“Sau khi Phật A Di Ðà nhập Niết Bàn, lại có chúng sanh căn lành sâu dày thì lại được
thấy như cũ”, [đoạn kinh này] có thể dùng để làm chứng vậy. Luận Bảo Tánh cũng chép:
“Báo thân có năm thứ tướng: thuyết pháp và có thể thấy được, các nghiệp chẳng ngơi
nghỉ và ngơi nghỉ Nn mất (tức là thị hiện nhập diệt), thị hiện thân chẳng thật”, ta có thể
lấy câu này làm bằng chứng vậy.
Hỏi: Báo thân cùng báo độ của Thích Ca Như Lai ở tại phương nào?
Ðáp: Kinh Niết Bàn chép: “Từ đây đi qua phương Tây khỏi bốn mươi hai hằng sa cõi
Phật có thế giới tên là Vô Thắng, tất cả sự trang nghiêm trong cõi ấy cũng giống hệt như
trong thế giới Tây phương Cực Lạc chẳng khác. Ta xuất hiện nơi đời trong cõi ấy. Vì
hóa độ chúng sanh nên hiện thân trong cõi Sa Bà này. Chẳng phải chỉ mình ta xuất hiện
trong cõi này mà hết thảy Như Lai cũng đều giống như thế’, ta có thể lấy đoạn kinh này
làm chứng cớ vậy.
Hỏi: Như kinh Cổ Âm Vương nói A Di Ðà Phật có cha mẹ thì biết rõ [thân Phật ấy,
cõi nước ấy] chẳng phải là báo Phật, báo độ hay sao?
Ðáp: Ông chỉ nghe danh tự mà chẳng chịu suy xét thấu đáo ý chỉ của kinh đến nỗi đối
với mối nghi ngờ có thể nói là chỉ sai sót tựa như mảy lông ấy mà lầm lạc đến cả ngàn
dặm. Dĩ nhiên, A Di Ðà Phật cũng có đủ ba thân, thân xuất hiện trong cõi Cực Lạc là
Báo Thân. Nay nói ngài có cha mẹ thì đó chính là cha mẹ của Hóa Thân thị hiện trong
uế độ vậy; cũng như Thích Ca Như Lai ở trong tịnh độ thành tựu Báo Thân, khi ngài ứng
hiện trong cõi này cũng thị hiện có cha mẹ, trở thành hóa Phật. Ðức A Di Ðà Phật cũng
giống như thế.
Lại như kinh Cổ Âm Thanh Vương có chép: “Lúc bấy giờ, A Di Ðà Phật cùng ở
chung với chúng Thanh Văn. Cõi nước tên là Thanh Thái, là chỗ ở của thánh vương.
Thành ấy rộng rãi mười ngàn do tuần. Cha của Phật A Di Ðà là Chuyển Luân Thánh
Vương; vua tên Nguyệt Thượng. Mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan. Ma Vương tên Vô
Thắng. Con Phật tên Nguyệt Minh. Ðề Bà Ðạt Ða tên Tịch Ý. Ðệ tử hầu hạ tên Vô Cấu
Xưng”. Những câu vừa dẫn ra trên đây đều là tướng trạng của Hóa Thân. Nếu là Tịnh
Ðộ, lẽ nào lại có Luân Vương và thành quách, nữ nhân v.v hay sao? Ðấy chính là đối
với những nghĩa lý tiềm Nn trong kinh văn đều chẳng khéo phân biệt, suy xét đến cùng
tột nên đến nỗi mê lầm nơi danh tự, sanh ra chấp trước vậy.
Hỏi: Nếu Báo Thân có tướng Nn mất, ngưng nghỉ thì Tịnh Ðộ cũng có thành, hoại hay
sao?
Ðáp: Ðối với lời cật vấn như vậy, tự xưa đến nay nghĩa lý cũng khó thông. Tuy nhiên,
tôi nay dám xin dẫn kinh để làm chứng hòng thấu hiểu được nghĩa lý ấy. Ví như thân
Phật là thường trụ mà chúng sanh thấy có nhập Niết Bàn; tịnh độ cũng thế: thể tánh của
8
nó chẳng có thành lẫn hoại nhưng tùy theo cái thấy của chúng sanh mà có thành, có
hoại. Như kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Ví như thấy đạo sư có vô lượng các thứ hình sắc
tùy theo tâm hạnh;chúng sanh thấy cõi Phật cũng như vậy’. Vì thế, Tịnh Ðộ luận viết:
“Do một chất chẳng thành nên tịnh, uế có vơi, đầy. Do dị chất chẳng thành nên truy xét
đến căn nguyên liền mờ mịt. Do không chất chi chẳng thành nên duyên khởi thành vạn
tượng ”. Do đó, ta biết rằng: nếu xét trên phương diện pháp tánh Tịnh Ðộ thì chẳng luận
định là thanh hay trược; còn nếu xét về mặt báo, hóa đại bi thì không có chi là chẳng
thuộc về tịnh hay uế cả!
Nếu lại bàn chung về các cõi Phật thì do căn cơ cảm ứng chẳng đồng nên có ba thứ sai
biệt:
a. Một là từ nơi Chơn hiện ra Báo, nên gọi là Báo Ðộ, giống như ánh sáng mặt trời
chiếu xuống tứ thiên hạ: Pháp Thân như mặt trời; Báo Thân và Hóa Thân như ánh nắng.
b. Hai là không mà chợt có nên gọi là “hóa” như Tứ Phần Luật chép: “Ðịnh Quang
Như Lai hóa ra thành Ðề Bà và thành Bạt Ðề ở gần nhau, [người trong thành] thân cận,
kết hôn, qua lại với nhau. Lúc sau ngài chợt hóa ra lửa thiêu trụi hết cả khiến cho các
chúng sanh thấy sự vô thường ấy rồi không ai là chẳng sanh lòng chán chường, quy
hướng Phật đạo”. Vì thế kinh dạy: “Hoặc hiện kiếp hỏa thiêu đốt trời đất đều rỗng toang
cả [khiến cho] chúng sanh có quan niệm hữu thường bèn thấu hiểu vô thường. Hoặc để
cứu giúp kẻ nghèo bèn hiện lập kho báu vô tận, tùy duyên chỉ bảo đủ cách, hóa độ họ
phát tâm Bồ Ðề”.
c. Ba là Nn uế hiện tịnh như trong kinh Duy Ma, Phật dùng ngón chân bấm xuống đất
khiến cả cõi Tam Thiên không có chỗ nào là chẳng nghiêm tịnh cả.
Nay cõi Phật Vô Lượng Thọ là từ chơn hiện ra báo vậy, vì sao biết được như vậy? Cứ
theo như kinh Quán Âm Thọ Ký dạy: “Trong vị lai, khi Quán Âm thành Phật sẽ thay thế
chỗ Phật A Di Ðà” cho nên biết là báo độ vậy.
A6. Cõi tịnh của Phật A Di Ðà thâu tóm thượng căn, hạ căn, thánh phàm đều
cùng vãng sanh
Nay cõi tịnh của Phật Vô Lượng Thọ chính là Báo Tịnh Ðộ. Do nguyện lực của Phật
nên cõi ấy nhiếp thủ trọn vẹn thượng căn lẫn hạ căn; thậm chí phàm phu làm lành cũng
được vãng sanh [cõi ấy]. Vì cõi ấy nhiếp thủ thượng căn nên Thiên Thân, Long Thọ và
các vị Ðịa Thượng Bồ Tát (Bồ Tát đã chứng các địa vị trong Thập Ðịa) cũng đều vãng
sanh. Do đó, Ðại kinh chép: “Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật: “Chẳng hay trong cõi này có bao
nhiêu vị bất thối Bồ Tát được sanh về cõi kia?’ Phật dạy: ‘Thế giới Sa Bà này có sáu
mươi bảy ức bất thối Bồ Tát đều sẽ vãng sanh”. Nếu muốn dẫn chứng chi tiết thì [có thể
nói đại lược là] trong các phương khác, [số lượng các Bồ Tát được vãng sanh] cũng
giống như vậy.
Hỏi: Ðã bảo là xét về mặt địa vị [tu chứng] thì cõi tịnh của Phật Di Ðà gồm trọn cả
thượng căn lẫn hạ căn, chẳng luận là phàm hay thánh cùng đều được vãng sanh, nhưng
chưa rõ là chỉ có người tu Vô Tướng mới được vãng sanh, chứ còn kẻ phàm phu hữu
tướng thì cũng có được vãng sanh hay chăng?
9
Ðáp: Phàm phu trí cạn, phần nhiều phải dựa vào tướng để cầu, họ quyết định được
vãng sanh, nhưng do sức thiện căn hữu tướng nhỏ nhoi nên chỉ được sanh trong cõi hữu
tướng, chỉ thấy được Báo Thân cùng Hóa Thân của Phật. Vì thế, trong phNm Bồ Tát Bổn
Hạnh của kinh Quán Phật Tam Muội, có nói:
“Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng:
- Con nhớ trong quá khứ vô lượng kiếp số, lúc con còn là phàm phu. Trong thời ấy có
đức Phật hiệu là Bảo Oai Ðức Thượng Vương Như Lai. Lúc đức Phật ấy xuất thế cũng
giống hệt như ngày nay không khác. Thân đức Phật ấy cũng cao một trượng sáu, thân
màu tử kim, giảng pháp Tam Thừa giống như đức Phật Thích Ca Văn. Lúc bấy giờ,
trong cõi ấy có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Trưởng giả có đứa con tên là Giới
Hộ. Lúc con còn nằm trong thai, bà mẹ vì kính tin nên đã thọ sẵn Tam Quy Y. Sau khi
con đã sanh ra, đến năm lên tám, cha mẹ thỉnh Phật đến nhà cúng dường. Ðứa bé thấy
Phật bèn lễ đức Phật, do tâm kính sâu xa nên mắt [nhìn Phật] chẳng tạm rời. Do một
phen thấy Phật liền trừ được tội lỗi trong cả trăm vạn ức na do tha kiếp sanh tử. Từ đấy
trở đi, thường sanh trong Tịnh Ðộ, liền được gặp gỡ trăm ức na do tha hằng hà sa Phật.
Các đức Thế Tôn ấy cũng đều dùng tướng hảo để độ thoát chúng sanh. Khi ấy, đối với
mỗi một đức Phật, đứa bé đều thân cận hầu hạ, chưa từng gián đoạn hay bỏ lỡ việc lễ
bái, cúng dường, chắp tay quán Phật. Do sức nhân duyên ấy, lại được gặp gỡ trăm vạn a
tăng kỳ đức Phật. Các đức Phật ấy cũng dùng sắc thân tướng hảo để hóa độ chúng sanh.
Từ ấy trở đi, [đồng tử] liền đắc trăm ngàn ức pháp môn Niệm Phật tam muội và còn
chứng đắc a tăng kỳ đà-ra-ni môn. Ðã chứng đắc các môn ấy rồi thì chư Phật hiện tiền
bèn giảng cho đồng tử pháp Vô Tướng. Trong khoảnh khắc liền đắc Thủ Lăng Nghiêm
tam muội. Ðồng tử khi ấy chỉ thọ Tam Quy, do một phen lễ Phật, quán kỹ thân Phật, tâm
không chán nhọc nhưng do nhân duyên đấy được gặp vô số Phật; huống hồ là kẻ hệ
niệm đầy đủ, tư duy quán sát sắc thân Phật. Ðồng tử khi ấy há phải người nào khác mà
chính là thân con vậy!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Văn Thù rằng:
- Lành thay, lành thay, ông do một phen lễ Phật nên được gặp vô số chư Phật, huống
là những đệ tử ân cần quán Phật, ân cần niệm Phật trong đời vị lai của ta.
Phật truyền A Nan: “Ông đem lời của Văn Thù Sư Lợi bảo khắp đại chúng và chúng
sanh đời vị lai: nếu ai hay lễ Phật, nếu ai hay niệm Phật, nếu ai hay quán Phật thì nên
biết là kẻ ấy bằng với Văn Thù Sư Lợi không khác. Xả thân rồi thì trong đời sau, các vị
Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi v.v sẽ làm hòa thượng của kẻ ấy”.
Lấy đoạn kinh này làm chứng thì biết rằng Tịnh Ðộ bao gồm cả cõi hữu tướng, [kẻ
phàm phu được] vãng sanh chẳng sai. Nếu biết lấy vô tướng ly niệm làm thể, duyên theo
đó để cầu vãng sanh thì phần nhiều sẽ sanh trong bậc thượng. Vì thế, Thiên Thân Bồ Tát
luận rằng: “Nếu có thể quán hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh thì [hai mươi
chín thứ trang nghiêm ấy có thể nói] đại lược là nhập trong một pháp cú. Một pháp cú
chính là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú tức là trí huệ vô vi Pháp Thân vậy”.
Vì sao lại có tướng chứng nhập rộng hay lược? Chỉ vì chư Phật, Bồ Tát có hai thứ
Pháp Thân: Một là Pháp Tánh Pháp Thân; hai là Phương Tiện Pháp Thân. Từ Pháp Tánh
Pháp Thân sanh ra Phương Tiện Pháp Thân; từ Phương Tiện Pháp Thân hiển xuất Pháp
10
Tánh Pháp Thân. Hai thứ Pháp Thân này tuy khác nhưng bất khả phân, tuy là một nhưng
lại chẳng đồng. Vì thế mới có tướng chứng nhập lược hay rộng. Bồ Tát nếu chẳng biết
tướng chứng nhập rộng hay lược thì chẳng thể lợi mình và lợi người. Vô Vi Pháp Thân
chính là Pháp Tánh Thân. Do pháp tánh tịch diệt nên Pháp Thân vô tướng. Vì Pháp Thân
vô tướng nên không có tướng gì là chẳng thành tựu được. Vì thế, tướng hảo trang
nghiêm chính là Pháp Thân. Vì Pháp Thân vô tri nên không chi là không biết; do đó,
Nhất Thiết Chủng Trí chính là trí huệ chơn thật. Tuy xét về mặt duyên quán thì thành ra
có hai thứ Tổng Quán và Biệt Quán, nhưng không có gì chẳng phải là Thật Tướng. Do
biết Thật Tướng nên biết được tướng hư vọng của chúng sanh trong tam giới. Do biết
chúng sanh trong tam giới đều là hư vọng nên liền khởi lòng từ bi chơn thật. Do đã biết
được lòng từ bi chơn thật nên liền khởi tâm quy y chơn thật. Ở đây, chẳng cần biết hành
giả là Tăng hay Tục, hễ ai hiểu được rằng Sanh và Vô Sanh chẳng hề trái nghịch với Nhị
Ðế thì phần nhiều sẽ được vãng sanh trong bậc thượng vậy.
A7. Bàn định Tịnh Ðộ Di Ðà là thuộc vào tam giới hay chẳng thuộc?
Hỏi: Xét trong tam giới, cõi nước An Lạc thuộc về giới nào?
Ðáp: Tịnh Ðộ thể tánh mầu nhiệm tột bực vượt hẳn thế gian. Cõi tam giới đây chính
là nhà tối của phàm phu sanh tử; tuy là có khổ vui hơn kém, dài ngắn sai khác, nhưng
xét chung thì không đâu chẳng phải là bờ bến hữu lậu dài lâu, khởi lên, Nn mất tiếp nối,
tuần hoàn không ngằn mé (ý nói: thế gian thành rồi hoại, hoại rồi lại thành liên tục), tạp
sanh chung đụng (gọi là tạp sanh là vì thế gian có các loài noãn, sanh, thấp, hóa), Tứ
Ðảo ngập tràn, nào nhân, nào quả, hư ngụy tích tập hết sức đáng chán. Do đó, Tịnh Ðộ
chẳng thuộc vào tam giới.
Hơn nữa, theo Trí Ðộ Luận: “Vì quả báo Tịnh Ðộ là vô dục nên [Tịnh Ðộ] chẳng phải
là Dục giới. Do ở trên đất nên chẳng phải là Sắc giới. Do có hình sắc nên chẳng phải là
Vô Sắc giới”. Tuy nói là ở trên đất (địa cư) nhưng tinh xảo, thù thắng, mầu nhiệm tuyệt
vời, cho nên ngài Thiên Thân luận rằng:
“Quán tướng thế giới ấy,
Trỗi vượt cả tam giới.
Rốt ráo dường hư không,
Rộng lớn không ngằn mé”.
Cũng vì thế mà bài tán Ðại kinh đã viết:
“Cõi diệu rộng lớn ngoài hạn số,
Tự nhiên do bảy báu hợp thành,
Do Phật nguyện lực trang nghiêm thành.
Kính lạy Thanh Tịnh Ðại Nhiếp Thọ!
Thế giới sáng ngời, đẹp tuyệt vời
Sung sướng, an ổn, không bốn mùa.
Sức tự lợi, lợi tha viên mãn,
Quy mạng Phương Tiện Xảo Trang Nghiêm”.
B. Trong đề mục lớn thứ hai, có ba ý bàn định.
* Một là luận về phát Bồ Ðề tâm.
* Hai là phá dị kiến tà chấp.
11
* Ba là nêu rộng các thứ vấn đáp, giải thích để dứt nghi tình.
B1. Phát Bồ Ðề tâm:
Trong phần này, có bốn ý: một là nêu lên công dụng của Bồ Ðề tâm; hai là nói đến
danh và thể của Bồ Ðề; ba là chỉ rõ phát tâm có sai khác; bốn là vấn đáp giải thích.
B1.1 Công dụng của Bồ Ðề tâm:
Ðại kinh dạy: “Phàm muốn vãng sanh Tịnh Ðộ, cần phải lấy phát tâm Bồ Ðề làm
nguyện’. Bồ Ðề là gì? Ấy là tên gọi của Vô Thượng Phật đạo. Nếu muốn phát tâm làm
Phật thì tâm ấy rộng lớn trọn khắp cả pháp giới. Xét đến cùng tột thì tâm ấy bằng với hư
không. Tâm ấy lâu xa đến tột cùng đời vị lai; tâm ấy trọn khắp, rời lìa Nhị Thừa chướng.
Nếu có thể một phen phát được tâm ấy thì ắt sẽ dứt được mối sanh tử từ vô thỉ; tất cả
công đức hồi hướng Bồ Ðề đều có thể vọng hướng về Phật quả, không gì bị mất mát. Ví
như thứ hoa lạ Ngũ Tịnh, nắng gió chẳng làm héo nổi nó; sông thiêng Phụ Thủy dù
trong đời có hạn hán, nước vẫn chẳng cạn.
B1.2 Danh và thể của Bồ Ðề:
Bồ Ðề có ba thứ: một là Pháp Thân Bồ Ðề, hai là Báo Thân Bồ Ðề, ba là Hóa Thân
Bồ Ðề.
Nói Pháp Thân Bồ Ðề là chỉ cho Chơn Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không: Tự
tánh thanh tịnh, thể chẳng uế nhiễm, lý xuất thiên chơn, chẳng phải do tu tập mà thành
nên gọi là Pháp Thân. Cái thể của Phật đạo vốn gọi là Bồ Ðề.
Báo Thân Bồ Ðề là tu trọn vạn hạnh nên cảm được cái quả là Báo Thân Phật. Do cái
quả ứng với cái nhân nên gọi là Báo Thân; vì viên thông vô ngại nên gọi Bồ Ðề.
Hóa Thân Bồ Ðề là từ báo khởi ra công dụng để thích ứng với muôn căn cơ nên gọi là
Hóa Thân; vì lợi ích muôn loài một cách viên thông nên gọi là Bồ Ðề.
B1.3 Chỉ rõ phát tâm có sai khác:
Nay nói về hành giả tu nhân phát tâm thì phải hội đủ ba điều:
- Một là cần phải hiểu thấu có không, từ trước đến nay, tự tánh vốn thanh tịnh.
- Hai là tu theo vạn hạnh, tám vạn bốn ngàn các ba la mật môn v.v
- Ba là lấy đại từ bi làm gốc, luôn nghĩ tưởng đến việc lấy chuyện độ sanh làm chí
nguyện.
Ba cái nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề nên gọi là “phát Bồ Ðề tâm”. Lại như Tịnh
Ðộ Luận đã viết: “Nay nói phát tâm Bồ Ðề thì đó chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm
nguyện làm Phật chính là tâm cứu độ chúng sanh. Tâm cứu độ chúng sanh chính là tâm
nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật”. Nay đã nguyện sanh Tịnh Ðộ thì trước hết là
phải phát tâm Bồ Ðề.
B1.4 Giải thích vấn đáp:
12
Hỏi: Nếu tu trọn vạn hạnh sẽ cảm được Bồ Ðề, sẽ được thành Phật thì tại sao kinh
Chư Pháp Vô Hành lại dạy: “Nếu ai cầu Bồ Ðề thời sẽ chẳng có Bồ Ðề, người ấy xa
cách Bồ Ðề ví như trời với đất”?
Ðáp: Xét về mặt lý thì chánh thể của Bồ Ðề là vô tướng; nay lại tác tướng để cầu thì
chẳng xứng lý cho nên nói là “người ấy xa cách”. Vì thế kinh dạy: “Bồ Ðề chẳng thể
dùng tâm để được, chẳng thể dùng thân để được”. Ở đây, ý nói hành giả tuy biết tu các
hạnh để cầu được vãng sanh, nhưng thấu hiểu rành rành là lý thể vô cầu cho nên chẳng
hoại giả danh; bởi thế, tu trọn vạn hạnh thì có thể cảm được [Bồ Ðề]. Do đó, Ðại Trí Ðộ
Luận mới viết: “Nếu ai thấy Bát Nhã thì là bị trói buộc, nếu chẳng thấy Bát Nhã thì cũng
là bị trói buộc. Nếu thấy Bát Nhã thì là giải thoát. Nếu chẳng thấy Bát Nhã thì cũng là
giải thoát”. Bồ Tát Long Thọ giải thích: “Ở trong đấy mà chẳng rời khỏi tứ cú (1) thì bị
trói buộc; rời được tứ cú thì sẽ giải thoát”. Nay cầu Bồ Ðề thì chỉ nên tu hành như vậy,
đấy chính là “chẳng hành mà hành”. Chẳng hành mà hành chính là chẳng trái nghịch đại
đạo lý Nhị Ðế vậy.
Hơn nữa, theo tác phNm Tịnh Ðộ Luận của ngài Thiên Thân thì: “Phàm muốn phát
tâm hiểu thấu Vô Thượng Bồ Ðề thì có hai nghĩa:
- Một là trước hết phải lìa bỏ ba thứ pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn.
- Hai là phải biết hai thứ pháp thuận Bồ Ðề môn.
Những gì là ba? Một là nương vào Trí Huệ Môn chẳng cầu mình được sung sướng, xa
lìa tâm chấp ngã, tham đắm thân mình. Hai là thuận theo Từ Bi Môn để dẹp khổ cho hết
thảy chúng sanh, xa lìa cái tâm làm cho chúng sanh chẳng được an ổn. Ba là thuận theo
Phương Tiện Môn, tâm xót thương hết thảy chúng sanh, xa lìa tâm cung kính, chăm chút
thân tâm mình. Ðấy gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn.
Thuận Bồ Ðề môn là Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn như trên thì
liền được ba thứ pháp thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba? Một là tâm vô nhiễm thanh
tịnh, chẳng vì tự thân cầu các sự vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm; nếu vì tự thân
cầu các vui thì chính là trái nghịch với Bồ Ðề môn. Vì thế tâm vô nhiễm thanh tịnh là
thuận Bồ Ðề môn. Hai là tâm an thanh tịnh vì dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Bồ Ðề
an ổn là chỗ thanh tịnh của hết thảy chúng sanh; nếu chẳng khởi tâm dẹp tan tử khổ cho
hết thảy chúng sanh thì là trái nghịch với Bồ Ðề. Vì thế dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh
là thuận với Bồ Ðề môn. Ba là tâm vui thanh tịnh, muốn cho hết thảy chúng sanh đắc
Ðại Bồ Ðề, dẫn dắt chúng sanh sanh về cõi nước [Cực Lạc] kia. Bồ Ðề là chốn thường
vui rốt ráo; nếu chẳng khiến cho hết thảy chúng sanh được hưởng niềm vui rốt ráo
thường hằng thì là trái nghịch với Bồ Ðề môn. Dựa vào đâu để đạt được niềm vui
thường hằng rốt ráo ấy? Phải dựa vào Ðại Nghĩa Môn. Ðại Nghĩa Môn chính là cõi Phật
An Lạc vậy. Vì thế, [chư Phật, Bồ Tát] mới muốn cho [chúng sanh] một dạ chuyên chí
nguyện sanh về cõi kia để họ sớm hiểu được Vô Thượng Bồ Ðề vậy”.
B2. Phá dị kiến tà chấp:
Trong phần này gồm có chín ý:
- Một là phá những vọng chấp, dị kiến, thiên chấp vào vô tướng của Ðại Thừa.
13
- Hai là giảng cho thông suốt ý nghĩa về ái kiến đại bi của Bồ Tát.
- Ba là phá cái chấp ngoài tâm không có pháp.
- Bốn là phá ý nguyện sanh trong cõi uế, chẳng nguyện sanh về cõi tịnh.
- Năm là phá cái chấp: nếu sanh về Tịnh Ðộ thì phần đông sẽ ham đắm sự vui.
- Sáu là phá ý tưởng cho rằng cầu sanh Tịnh Ðộ là Tiểu Thừa.
- Bảy là phá quan niệm: cầu sanh trời Ðâu Suất, chẳng quy hướng Tịnh Ðộ.
- Tám là giảng cho thông suốt rằng cầu sanh về mười phương Tịnh Ðộ chẳng bằng
quy hướng về Tây Phương Cực Lạc.
- Chín là biện định giáo nghĩa “biệt thời ý”.
B2.1 Phá vọng chấp vào Ðại Thừa vô tướng:
Trong tiểu đoạn này gồm có hai ý: Một là nêu tổng quát về sự sanh khởi [của những
mối vọng chấp ấy] để kẻ hậu học thấy rõ đúng, sai, bỏ tà hướng chánh. Hai là bàn chi
tiết về từng mối nghi để phá tan nghi tình.
* Nêu tổng quát vấn đề:
Danh nghĩa trong thâm tạng Ðại Thừa nhiều như cát bụi; vì thế kinh Niết Bàn dạy:
“Một tên có vô lượng nghĩa, một nghĩa có vô lượng tên”. Cần phải xét suy khắp các kinh
điển thì mới thấu hiểu được yếu chỉ của từng bộ kinh, chứ chẳng phải như kinh sách
Tiểu Thừa hay sách vở thế tục, chỉ cần căn cứ vào câu văn là lãnh hội được ý nghĩa. Vì
sao lại phải như thế? Chỉ vì kinh, luận Tịnh Ðộ sâu thẳm, [ý nghĩa] hoặc Nn, hoặc hiển
đến nỗi phàm tình bỡ ngỡ. Sợ họ bị vướng vào lời dối tua tủa, trăm mối thiên chấp sai
lầm tạp loạn vô tri [đến nỗi] phương ngại việc vãng sanh nên nay tôi bèn nêu lên đôi
điều để lần lượt đả phá.
* Thứ nhất là vọng chấp vào vô tướng Ðại Thừa.
Hỏi: Nếu có kẻ bảo: Ðại Thừa vô tướng chẳng luận đây, kia. Nếu nguyện sanh về
Tịnh Ðộ thì chính là chấp tướng, lậu phược càng tăng thêm, cầu sanh làm chi?
Ðáp: Chấp như vậy chẳng đúng. Vì sao? Hết thảy chư Phật nói pháp cần phải đủ cả
hai duyên: Một là dựa vào Thật Lý của pháp tánh; hai là phải thuận theo Nhị Ðế (2).
Nếu chấp vào vô niệm của Ðại Thừa thì mới chỉ là dựa theo pháp tánh, còn nếu báng
rằng chẳng cần phải cầu thì lại chẳng thuận theo Nhị Ðế. Kiến giải như vậy là bị đọa vào
kiến chấp Diệt Không. Vì thế, kinh Vô Thượng Y mới chép: “Phật bảo A Nan: Dù hết
thảy chúng sanh khởi lên Ngã Kiến [to] như núi Tu Di, ta vẫn chẳng sợ.Vì sao vậy? Tuy
những kẻ ấy chưa được xuất ly nhưng thường chẳng hoại nhân, quả, chẳng lầm quả báo.
Nếu khởi lên Không Kiến dẫu chỉ bằng hạt cải thì ta chẳng chấp nhận. Vì sao thế? Cái
thấy như vậy phá hoại nhân quả, phần nhiều sẽ bị đọa vào nẻo ác. Sanh trong đời sau ắt
sẽ chống trái lời dạy của ta”. Nay khuyên hành giả: Tuy về lý là vô sanh nhưng trong
đạo lý Nhị Ðế thì chẳng phải là không cần phải cầu cho hết thảy được vãng sanh.
Do đó, kinh Duy Ma Cật dạy: “Tuy quán cõi nước của chư Phật và chúng sanh là
không, nhưng thường tu Tịnh Ðộ, giáo hóa các quần sanh”. Kinh ấy còn dạy: “Tuy hành
vô tác mà hiện thọ thân; ấy là hạnh Bồ Tát. Tuy hành vô khởi mà khởi hết thảy hạnh
lành; ấy là hạnh Bồ Tát”. Ðấy là lời chứng chơn thật vậy.
14
Hỏi: Nay trong đời có kẻ hành Ðại Thừa vô tướng chẳng chấp là đây hay kia, nhưng
trọn chẳng giữ giới tướng thì nghĩa là làm sao?
Ðáp: Chấp như vậy tai hại rất sâu. Vì sao? Như kinh Ðại Phương Ðẳng đã dạy:
“Vì ưu bà tắc mà đức Phật lập ra giới cấm: chẳng được tới nhà quả phụ, gái trinh, nhà
nấu rượu, nhà nhuộm chàm, nhà ép dầu, nhà thuộc da đều chẳng được vãng lai. A Nan
bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Vì sao đối với những hạng người như vậy mà lập ra
giới này?’
Phật bảo A Nan: - Hành giả có hai thứ: một là hành giả trong thế gian, hai là hành giả
xuất thế gian. Ðối với người xuất thế, ta chẳng cấm những sự trên;còn đối với người thế
tục, nay ta ngăn cấm. Vì sao vậy? Hết thảy chúng sanh đều là con ta; Phật là phụ mẫu
của hết thảy chúng sanh. Phật ngăn cấm, ước thúc để họ sớm thoát khỏi thế gian, chứng
đắc Niết Bàn”.
B2.2 Giảng cho thấu suốt về ái kiến đại bi của Bồ Tát:
Hỏi: Căn cứ theo Ðại Thừa thánh giáo thì nếu Bồ Tát đối với các chúng sanh mà khởi
lên ái kiến đại bi thì liền phải nên xả ly. Nay lại khuyên chúng sanh cùng sanh Tịnh Ðộ,
há chẳng phải là ái nhiễm, chấp lấy tướng đấy ư?
Ðáp: Hạnh pháp công dụng của Bồ Tát có hai thứ. Ðó là gì? Một là chứng Không Huệ
Bát Nhã. Hai là đầy đủ Ðại Bi.
Một là nhờ vào sức tu Không Huệ Bát Nhã nên dẫu có vào trong sanh tử sáu đường
vẫn chẳng bị trần nhiễm trói buộc.
Hai là do vì Ðại Bi nghĩ tưởng đến chúng sanh nên chẳng trụ trong Niết Bàn; tuy Bồ
Tát ở trong Nhị Ðế nhưng thường có thể khéo bỏ được cả hữu lẫn vô.
Ðối với lấy, bỏ, Bồ Tát đã đạt được Trung Ðạo, chẳng trái với đại đạo lý. Vì thế kinh
Duy Ma có dạy: “Ví như có người muốn tạo lập cung điện ở nơi đất trống thì tùy ý vô
ngại; còn nếu muốn tạo dựng trên hư không thì trọn chẳng thành được. Cũng giống như
vậy, vì muốn thành tựu chúng sanh nên Bồ Tát nguyện nhiếp thủ cõi Phật”. Nguyện
nhiếp thủ Phật quốc thì chẳng phải là thuộc về Không vậy.
B2.3 Phá cái chấp ngoài tâm không pháp
Trong phần này, có hai ý: một là phá chấp; hai là vấn đáp, giải thích.
* Hỏi: Nếu có kẻ nói rằng: Tịnh cảnh được quán tưởng đó là thuộc về nội tâm. Tịnh
Ðộ dung thông, cứ hễ tâm tịnh là sẽ đạt được; ngoài tâm không có pháp, cần gì phải quy
về Tây Phương?
Ðáp: Về mặt lý thì Pháp Tánh Tịnh Ðộ dung thông rỗng rang, thể không hạn cuộc
riêng ở một chỗ nào. Ấy là vô sanh mà sanh, chỉ bậc thượng sĩ mới chứng nhập nổi. Vì
thế, kinh Vô Tự Bảo Khiếp dạy: “Này thiện nam tử! Lại có một pháp là điều giác ngộ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét