LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "giải pháp phát triển kttt định hướng xhcn ở việt nam": http://123doc.vn/document/1051829-giai-phap-phat-trien-kttt-dinh-huong-xhcn-o-viet-nam.htm
Hiện nay, nớc ta đang phát triển đi theo con đờng định hớng xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra con đờng đúng đắn cùng các biện
pháp tránh sai lệch, chệch bớc. Trong diễn văn khai mạc đại hội IX Chủ tịch
nớc Trần Đức Lơng có nói: "Bớc vào thời kỳ mới, cách mạng nớc ta vừa đứng
trớc thời cơ vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức lớn
không thể xem thờng. Nắm bắt cơ hội vận dụng thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vợt
qua thách thức với tinh thần cách mạng tiến công đa cách mạng Việt Nam tiến
lên mạnh mẽ. Đó là vấn đề sống còn đối với chúng ta trong thời kỳ mới". Quả
đúng nh vậy, kết quả đạt đợc hôm nay là không nhỏ, phải biết coi trọng giữ
gìn. Nhất là xung quanh ta vẫn còn nhiều kẻ rình mò luôn tìm cách phá hoại,
gây rối. Xác định đúng đờng lối luôn là công việc thờng xuyên, liên tục và có
tầm quan trọng cao. Hiện nay nớc ta đang trong kinh tế thị trờng theo định h-
ớng XHCN. Việc đa ra các định hớng, đờng lối để phát triển KTTT theo
XHCN nh thế nào? trớc tiên ta đi nghiên cứu sự ra đời của nó, sự phát triển
của nó. Hiện trạng thế nào để đa ra các giải pháp giải quyết một cách phù hợp.
Vì vậy tôi làm tiểu luận này một mặt phân tích tính tất yếu khách quan, đặc
điểm kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác đa ra
các giải pháp giải quyết các vấn đề hiện nay, cho dù vậy tôi không cho rằng
các giải pháp tôi đa ra là hoàn chỉnh nhng mong rằng nó cũng có chút ý nghĩa.
1
Nội dung
I- Một số vấn đề về kinh tế thị trờng.
1. Sự hình thành và phát triển của KTTT.
Về phơng diện kinh tế có thể khái quát rằng lịch sử phát triển của sản
xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua 2 kiểu tổ chức kinh
tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất và phân công lao
động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: Thời đại kinh tế
tự nhiên, tự cung - tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của
nó đợc gọi là kinh tế thị trờng.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó
là phơng thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng
vật của tự nhiên và sau đó đợc thực hiện thông qua những tác động trực tiếp
vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của
con ngời. Nó đợc bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoà khép kín giữa con ngời
và tự nhiên, kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con ngời và tự nhiên,
mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó
gắn liền với xã hội sinh tồn, kinh tế nông nghiệp tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại
và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhng vẫn còn tồn tại trong xã hội t
bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên hiện vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn
liền với kém phát triển và lạc hậu.
Kinh tế hàng hoá bắt đầu từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế
độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công
lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về t
liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh
không phải là thiên đờng mà vẫn có những khuyết tật nhất định, kinh tế
thị trờng hiện đại phát triển vào khoảng những năm 50 của thế kỷ 20 với đặc
trng: Nhà nớc can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế và mở rộng giao lu kinh
tế với nớc ngoài trong khi ở các giai đoạn trớc đây (khoảng cuối thế kỷ 17 đến
đầu thế kỷ 20) kinh tế thị trờng tự do phát triển theo tinh thần tự do Nhà nớc
không can thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng kinh tế mà chỉ làm các
tổ chức truyền thống của Nhà nớc pháp quyền:
- Bảo vệ quyền sở hữu của các nhà kinh doanh (ngời canh gác trong kinh
tế thị trờng).
- Nhà nớc bảo đảm an ninh chính trị, quốc phòng, an toàn xã hội, tạo môi
trờng thuận lợi cho các doanh nghiệp.
- Xử lý các tranh chấp trong kinh doanh và vi phạm pháp luật.
2
Trong giai đoạn kinh tế thị trờng hiện đại, Nhà nớc can thiệp vào kinh tế,
chủ yếu thông qua các chính sách tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại (thuế, lãi
suất chiết khấu của ngân hàng, điều tiết xuất nhập khẩu ). Trên thế giới ngày
nay không có Nhà nớc nào không can thiệp vào kinh tế chỉ khác nhau ở biện
pháp, mục tiêu và kết quả đạt đợc. Kinh tế thị trờng hiện đại ở các nớc đều có
sự kết hợp giữa cơ chế thị trờng (bàn tay vô hình) và bàn tay hữu hình của Nhà
nớc.
Khi lực lợng sản xuất còn ở mức thấp, ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình
thức sở hữu và phân tán, lực lợng sản xuất từng bớc phát triển sẽ là tỉ lệ thuận
với tiến trình tập trung hoá và xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đinhr cao của nó
là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần,
các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia hoặc các đại nông trại ở nông thôn đ-
ợc coi là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một mức
độ nhất định do kết quả tác động biện chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Với cách nhìn đó thì chế độ công hữu XHCN đợc xác lập nh một tất
yếu khách quan bởi sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
cao của lực lợng sản xuất. Nhìn trên góc độ khác, trong mối quan hệ giữa
KTTT và định hớng XHCN cũng có thể nhận thấy rằng, KTTT biểu thị nổi bật
nh phơng thức vận động của lực lợng sản xuất, còn định hớng XHCN thể hiện
quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý) cần
đạt tới của phơng thức vận động đó CNXH ở đây cũng có thể hiểu đó là một
nền tảng kinh tế - xã hội đợc dựa trên chế độ sở hữu công cộng và chỉ có dựa
trên chế độ đó mới thực hiện đợc ý tởng cao đẹp do lịch sử giao phó là xây
dựng một xã hội công bằng, văn minh với ý nghĩa đích thực của nó. Cũng cần
nhấn mạnh thêm rằng, ở đây chỉ nói đến phát triển KTTT theo định hớng
XHCN cha phải là KTTT XHCN. Điều đó cũng có thể hiểu KTTT chỉ là một
phơng tiện để đạt tới mục tiêu XHCN. Nh vậy CNXH sẽ đạt tới trong tơng lai
nh một sự kiện lịch sử tất yếu.
2. Quan điểm của Lênin về KTTT trong CNXH (chính sách kinh tế
mới).
V.I Lênin, trớc cách mạng tháng 10, cho rằng. Trong CNXH, nền kinh tế
hàng hoá sẽ bị xoá bỏ "để tổ chức nền sản xuất không có những nhà kinh
doanh". Thế nhng đến mua xuân 1921. Khi nội chiến kết thúc, trớc những
nhiệm vụ nặng nề của việc khôi phục nền kinh tế, khắc phục hậu quả của
chính sách cộng sản thời chiến Lênin và Đảng Bôn sê vích Nga đã quyết định
thực hiện chính sách mới. Nội dung chủ yếu của nó. Thay thế chính sách trng
thu lợng thực bằng chính sách thuế lơng thực. Theo chính sách này, ngời nông
dân chỉ nộp thuế lơng thực với một mức cố định trong nhiều năm. Mức thuế
này căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất đai canh tác. Nói cách khác thuế
nông nghiệp chính là địa tô mà ngời nông dân canh tác trên ruộng đất thuộc sở
hữu toàn dân phải trả cho Nhà nớc. Số lợng thực còn lại, ngời nông dân đợc tự
3
do, trao đổi , mua bán trên thị trờng. Tổ chức thị trờng, thơng nghiệp, thiết lập
quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa Nhà nớc và nông dân, giữa thành thị và nông
thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp. Sử dụng sức mạnh kinh tế nhiều thành
phần, các hình thức quá độ nh khuyến khích phát triển sản xuất nhỏ của nông
dân, thợ thủ công, khuyến khích kinh tế t bản t nhân, sử dụng CNTB Nhà nớc
chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế. Đồng thời VI. Lênin chủ trơng phát
triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các nớc phơng Tây để tranh thủ kỹ
thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát triển. Nh vậy khác với thời kì nội
chiến, trong điều kiện hoà bình ở nớc Nga Xô Viết đã chủ trơng khôi phục
phát triển kinh tế dựa trên những nguyên tắc của nền kinh tế hàng hoá, kinh tế
thị trờng. Nh vậy nội dung chủ yếu chính sách kinh tế mới là thừa nhận kinh
tế hàng hoá, thừa nhận tự do buôn bán, cho phép tồn tại đến một giới hạn nhất
định thành phần kinh tế t bản t nhân, sử dụng các hình thức kinh tế quá độ,
xem CNTB Nhà nớc và hợp tác xã nh là những chiếc cầu nhỏ lên CNXH.
Chính Lênin khi căn cứ vào điểm xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội còn thất ở nớc Nga lúc bắt đầu quá độ lên CNXH. Đã đề xuất mô
hình CNXH có vai trò của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng. Thực ra, lí luận
về kinh tế hàng hoá, về CNTB. Nhà nớc trong thời kì quá độ lên CNXH theo
quan điểm của Lênin có nội dung rất phong phú. Song lí luận đó cha phải đã
hoàn chỉnh, nhiều vấn đề cha đợc Lênin lí giải một cách cặn kẽ. Hơn nữa, vì
thời gian thử nghiệm NEP ở nớc Nga trớc đây quá ngắn và thành tựu của nó
cũng cha nhiều, lại cha đợc tổng kết từ thực tiễn, để hoàn chỉnh về mặt lí luận,
đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho kinh tế thị trờng, trong
nhiều năm bị nhìn nhận bằng thái độ kì thị tại các nớc thuộc hệ thống XHCN.
Kinh tế thị trờng tuy có nhiều điểm mạnh nhng bản thân nó vốn có
những giới hạn, những khuyến tật mang tính tự phát hết sức bớng bỉnh. Hơn
thế nữa, quan hệ thị trờng còn là môi trờng thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu
cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy đồng tiền chi phối
nhiều quan hệ giữa ngời với ngời, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội
có chiều hớng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng.
KTTT có nhiều mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó là xu thế
phân hoá giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà
chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm Đi vào kinh tế thị trờng, phải kiên quyết
đấu tranh khắc phục hạn chế tối đa những khuynh hớng tiêu cực. Trên đây là
những vấn đề khái quát nhất về KTTT. Để tìm hiểu rõ hơn vấn đề KTTT và áp
dụng ở Việt Nam nh thế nào, chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
II- Sự phát triển kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
1. Quá trình chuyển sang kinh tế thị trờng ở nớc ta.
Nh đã nói ở trên lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế
khác nhau. Mỗi mô hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định
4
trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Song nghiên cứu một cách nghiêm tục
các mô hình đó, cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế, chúng ta đã rút ra
cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn.
Trớc đây mô hình kinh tế hiện vật đợc coi là lý tởng thì đã bộc lộ những
hạn chế và kết quả là, vô tình nó đã phủ định những mục tiêu ban đầu của
CNXH. Đặc trng cơ bản của mô hình kinh tế hiện vật là nền kinh tế bị hiện vật
hoá, t duy hiện vật, chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là phổ biến, nền
kinh tế khép kín với cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ. Trên thực
tế, yếu tố kế hoạch hoá tập trung đã loại bỏ yếu tố thị trờng, quan hệ hàng hoá
tiền tệ chỉ còn là hình thức. Sự điều tiết theo chiều dọc đã lấn át các quan hệ
kinh tế theo chiều ngang. Vai trò ngời tiêu dùng bị hạ thấp. Hệ thống quản lý
quan liệu tỏ ra không có khả năng gắn sản xuất với nhu cầu. Phải chăng việc
lựa chọn mô hình bắt nguồn từ luận đề cơ bản: nền kinh tế XHCN mang tính
xã hội trực tiếp, do đó nó gắn liền với tính kế hoạch hoá tập trung cao độ; và
từ những nguyên nhân sâu xa; một là, những dự báo của những nhà kinh điển
là dự báo cho tơng lai rất xa với những ý tởng tốt đẹp, nhng chúng ta nóng vội,
thiết kế thành những mô hình cụ thể, tức thời, không thể vận hành có kết quả;
hai là, CNTB thời kỳ đầu rất dã man, vì thế những ngời cộng sản khi làm cách
mạng thành công, mong muốn thiết kế một mô hình mới để giảm gánh nặng
đau khổ cho quần chúng lao động; ba là, các nớc XHCN cũng nh nớc ta phần
lớn trải qua chiến tranh lâu dài, mà trong chiến tranh, tập trung cao độ là cơ
chế thích hợp "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng". Cùng cần nói
thêm một nguyên nhân thứ t nữa là: Bản thân KTTT có mặt tích cực và tiêu
cực nh đã nói trên. Đáng lẽ phải tìm thấy cả hai mặt đó, nhng các nớc XHCN
chỉ thấy mặt tiêu cực, mặc nhiên phủ định KTTT một cách tuyệt đối.
Kinh tế hiện vật gắn liền với quan niệm truyền thống về KTXHCN tuy đã
có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ
vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế,
chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật; nền kinh tế không có động lực,
không có sức đua tranh, không phát huy đợc tính chủ động sáng tạo của ngời
lao động, của các chủ thể sản xuất - kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu
cầu, ý chí chủ quan lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức mạnh
nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt
hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của CNXH không đợc thực hiện.
KTTT có những đặc trng cơ bản nh: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng
thị trờng, tự do kinh doanh, tự do thơng mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở
hữu, phân phối do quan hệ cung cầu đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ
mô" để khắc phục khuyết tật của nó. Nhờ sử dụng những yếu tố kích thích của
nền KTTT mà CNTB đã đạt đợc những thành tựu cả về năng suất, chất lợng
hiệu quả và một số mặt về xã hội. Mặc dù còn nhiều khuyết tật, song CNTB
đã đạt đợc trình độ cao về kinh tế kế hoạch và công nghệ cũng từ đó có thể rút
5
ra một luận đề "Không phải chế độ XHCN thua chế độ TBCN, không phải KT
XHCN thua KT TBCN mà kinh tế hiện vật thua KTTT". Bi kịch Liên Xô và
Đông Âu làm cho những ngời cộng sản chân chính đau đớn nhng cũng từ đó
mà cách nhìn thực tế hơn về kinh tế XHCN, quyết tâm đổi mới. Chính vì vậy,
đổi mới, cải cách chính là trở về những cái đã từng có trong đời sống đơng đại
mà chúng ta bỏ quan. Cần nhận thức rõ rằng, KTTT là một trong những yếu tố
của quá trình phát triển xã hội, chứ không phải là cái gì đó riêng có của
CNTB. CNXH với những mục tiêu tốt đẹp, nhng không sử dụng KTTT thì
không thể thành công không thể biến những ý tởng tốt đẹp đó thành hiện thực
của cuộc sống.
Trong lịch sử kinh tế thế giới, KTTT nh một tất yếu gắn liền với sự tồn tại
của mọi quốc gia, là con đờng dẫn đến giàu có, văn minh. Tất nhiên không
phải nớc nào chuyển sang KTTT cũng giàu có cả. Điều đó còn tuỳ thuộc vào
nỗ lực chủ quan, bản lĩnh vai trò và trí tuệ của nhà nớc ấy. ở nớc ta sự lựa
chọn mô hình KTTT là một tất yếu. Do những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt,
trong một thời kỳ dài chúng ta đã duy trì nên kinh tế hiện vật theo mô hình
của các nớc XHCN. Chế độ kinh tế xã hội đó đã tỏ rõ sức mạnh trong chiến
tranh, nhng những khuyến tật nghiêm trọng của nó lại đợc chính hoàn cảnh
chiến tranh ché lập. Mặt khác, nớc ta đi lên CNXH từ điểm xuất phát rất thấp,
cơ cấu kinh tế mang nặng đặc trng của một nớc nông nghiệp lạc hậu. Nhận rõ
điểm xuất phát đó, trong chính sách kinh tế Đảng đã có những tìm tòi với
mong muốn thoát khỏi sản xuất nhỏ, nhng những giải pháp đó đợc đặt trong
môi trờng kinh tế hiện vật, nên không mang lại kết quả.
Sau chiến tranh do nguồn việc trợ lớn từ bên ngoài bị cắt giảm đột ngột
nên khủng hoảng kinh tế xã hội ở nớc ta vốn đã gay gắt, nay càng gay gắt
thêm. Đồng thời hàng loạt thử thách làm bộc lộ đầy đủ những khuyết tật của
mô hình cũ và hệ quả của những bớc đi nóng vội, chủ quan. Trong thực tiễn
kinh tế hiện vật với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, đã bộ lộ nhiều tiêu cực:
sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân sa sút, trong quản lý đã tỏ ra bất lực.
Trong nông nghiệp, khoán chui trở thành phổ biến ở nhiều địa phơng. Trong
công thơng nghiệp các nhà máy xí nghiệp không thể bằng lòng với cơ chế
"Cấp phát - giao nộp" đã tự động "xé rào" do thiếu vật t nguyên liệu, vốn
liếng, do bất lực của công cụ kế hoạch hoá kiểu cũ. Sự phát triển của thị trờng
tự do chen lẫn thị trờng có tổ chức. Sự lẳng lặng vi phạm các "qui tắc", "chuẩn
mực" lúc bấy giờ, là những phản ứng KTXH phản ánh sự bất cập và bất lực
của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Những tìm tòi, thử nghiệm trong cuộc sống
của đông đảo quần chúng là những hiện tợng kinh tế mới lại có sức thuyết
phục giống nh những giải pháp thực tế đích thực, cả tích cực lẫn tiêu cực để
tồn tại. Tình hình đó đòi hỏi sự cần thiết thay đổi.
Từ thực tế và phong trào quần chúng đã đựt ra một cách nghiêm túc về
những vấn đề lý luận buộc chúng ta phải xem xét lý giải tìm động lực cho sự
6
phát triển. Nhìn thẳng vào sự thật Đảng ta đã có những chuyển biến, bắt đầu
uốn nắn những lệch lạc trong phong trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá đến
việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết trung ơng lần thứ VI (khóa VI) đ-
ợc đánh dấu nh một cái mốc trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh
tế: cho sản xuất bung sai thừa nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ; cho tự do lu
thông Chỉ thị 100 của Ban bí th cho phép khoán sản phẩm trong nông nghiệp,
Quyết định 25 CP của Chính phủ cho phép thực hiện kế hoạch ba phần trong
các xí nghiệp công nghiệp. Vấn đề giá cả cốt lõi của cơ chế cũ là đột phá khẩu
đầu tiên triển khai mạnh mẽ những thử nghiệm về giá cả 1981, tổng điều
chỉnh giá lơng nên 1985, bỏ phân phối theo định lợng, bù giá vào lơng ở các
tính phía Nam là những khám phá từ thực tế. Tuy những ý tởng đổi mới đợc
hình thành nhng mới có tính chất tìm kiếm thích nghi, điều chỉnh cục bộ, cha
trở thành những quan điểm có hệ thống của Đảng. Chỉ đến năm 1986 khi
những tiền đề và điều kiện cho công cuộc đổi mới đã xuất hiện đầy đủ thì
những quan điểm trên mới đợc công khai thừa nhận.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đợc đánh dấu nh một cái mốc quan trọng
trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những
hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, cũng từ đó tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang KTT. Tổng kế 2 năm
thực hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục đợc suy thoái, nền kinh
tế xã hội đã có những thay đổi căn bản đó là những căn cứ để đẩy tới một bớc
cao hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang KTTT với
những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trờng một cách cơ bản, tổng thể
lâu dài, một thị trờng thống nhất trong suốt, hoà nhập với thị trờng thế giới, thị
trờng là đối tợng quản lý của Nhà nớc. Đại hội toàn quốc lần thứ VII đã đề ra
đờng lối: "Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng
XHCN, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Điều đó đã
chỉ rõ mục tiêu và phơng thức quản lý nền KTTT theo định hớng XHCN của
nớc ta.
Đại hội VIII Đảng ta lại khẳng định "Xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng, đi đôi với tăng cờng vai trò
quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN", " phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo
định hớng XHCN". Năm năm qua, bên cạnh một số thuận lợi, nớc ta gặp
nhiều khó khăn: những yếu tố kém vốn có của nền kinh tế, những thiên tai lớn
liên tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở một số nớc Châu á, tình hình
khu vực và thế giới diễn biến phức tạp. Trong toàn cảnh đó. Toàn Đảng và toàn
dân ta ra sức thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII đạt đợc những thành tựu quan
trọng.
7
Kinh tế tăng trởng khá, văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân
dân tiếp tục đợc cải thiện, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh đợc tăng cờng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đợc chú
trọng, hệ thống chính trị đợc củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng đợc mở
rộng, hội nhập kinh tế quốc tế đợc tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Những thành tựu 5 năm qua đã tăng cờng sức mạnh tổng hợp, làm thay
đổi bộ mặt của đất nớc và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập
dân tộc và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nớc ta trên thị trờng
quốc tế.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII có những yếu kém
khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển cha vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.
Một số vấn đề văn hoá xã hội bức xúc và gay gắt chậm đợc giải quyết. Cơ chế,
chính sách không đồng bộ và cha đợc tạo động lực mạnh để phát triển, tình
trạng tham nhũng suy thoái ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên là rất
quan trọng.
Nói tóm lại nớc ta chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trờng là một tất yếu khách quan. Về mặt lịch sử vào cuối những năm 80, về
cơ bản trong nền kinh tế nớc ta, sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, trạng thái kinh tế
tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp vẫn còn chiếm u thế. Nớc ta là một nớc
nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành mục tiêu và
nhiệm vụ số một buộc ta phải chuyển từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trờng có
sự quản lý của Nhà nớc và định hớng XHCN. Về mặt logíc. Nh đã nói trên n-
ớc ta là một nớc có nền văn minh lúa nớc, nghèo nàn, lạc hậu vì vậy sự phát
triển của Việt Nam trong hiện tại và tơng lai phải là sự phát triển vì sự giàu có,
phồn vinh, hạnh phúc Điều đó hoàn toàn hợp qui luật. Hợp qui luật là Nhà n-
ớc ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN.
2. Đặc điểm kinh tế thị trờng định hớng XHCN ở nớc ta.
2.1. Cái chung và cái riêng giữa nền KTTT TBCN và KTTT XHCN.
Các Mác đã nêu 2 điều kiện để hình thành KTTT là sở hữu khác nhau và
sự phân công lao động xã hội. Sau này, để cụ thể hoá và thích nghi trong điều
kiện thị trờng cạnh tranh quyết liệt, nhiều nhà kinh tế đã đề cập rõ hơn các
điều kiện hoạt động của thị trờng là quyền chiếm hữu tài sản khác nhau và lợi
ích của ngời sản xuất kinh doanh khác nhau, tạo động lực cạnh tranh trên thị
trờng.
Sự giống nhau giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT định hớng XHCN
xuất phát từ tính khác quan của nó. Cả hai kiểu KTTT này đều chịu sự tác
8
động của cơ chế thị trờng với hệ thống các qui luật: qui luật giá trị, qui luật
cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật lu thông tiền tệ Đồng thời cả nền
KTTT ở các nớc TBCN và nền KTTT định hớng XHCN đều là các nền kinh tế
hỗn hợp, tức là nền KTTT có sự điều tiết (quản lý) của Nhà nớc. Tuy nhiên, sự
can thiệp của Nhà nớc ở các nền kinh tế khác nhau là khác nhau. Không có
nền KTTT thuần tuý (hoàn hảo) chỉ vận hành theo cơ chế thị trờng.
Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trờng TBCN và nền KTTT định hớng
XHCN là ở mục tiêu, phơng thức, và mức độ can thiệp của Nhà nớc và sự can
thiệp này do bản chất của Nhà nớc quyết định. Nhà nớc trong một nền KTTT
định hớng XHCN là Nhà nớc của dân, do dân và vì dân; Nhà nớc trong nền
KTTT TBCN là Nhà nớc của giai cấp t sản. Một xu hớng rất đáng chú ý là tuy
Nhà nớc TBCN đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các tầng lớp
xã hội, các giai cấp khác nhau, để giảm bởi mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn
định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song do sự chi phối và điều tiết của
các qui luật kinh tế của CNTB, của lợi ích giai cấp, nên dù họ có ý thức tự
điều chỉnh cũng khó thực hiện. Sự can thiệp của Nhà nớc đảm bảo mục tiêu
phát triển và công bằng chỉ có thể thực hiện đợc với một Nhà nớc của dân, do
dân và vì dân, Nhà nớc XHCN. Rất tiếc là không nhận thức rõ điều này nên
vẫn còn một bộ phận không nhỏ trong nhân dân kể cả một bộ phận, trí thức th-
ờng nghĩ rằng cơ chế thị trờng sẽ dẫn tới CNTB, khó giữ đợc định hớng
XHCN.
2.2. Bản chất và đặc điểm của nền KTTT định hớng XHCN ở nớc ta.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung hành
chính - quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN
là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất của đối với nền kinh tế nớc ta
trong hiện tại và tơng lai. Đặc biệt, cơng lĩnh xây dựng đất nớc trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, đợc Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên 6 đặc trng bản chất
của xã hội XHCN và những quan điểm phơng hớng tổng quát về phát triển
kinh tế xã hội theo định hớng XHCN ở nớc ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân
tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã đợc khái quát nói trên từ đó rút ra những
kinh nghiệm để nhận thức và hành động áp dụng cho hiện nay vẫn còn là cần
thiết.
Thứ nhất, nền KTTT định hớng XHCN mà nớc ta sẽ xây dựng là nền
KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (XH XHCN). Mặc dù nền kinh tế
nớc ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhng khi nớc ta
chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng thì thế giới đã
chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị
trờng tự do). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai
đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trờng tự do, mà đi
9
thẳng vào phát triển kinh tế thị trờng hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của
sự phát triển rút ngắn. Mặt khác thế giới vẫn còn đang nằm trong thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH, cho nên, sự phát triển kinh tế - xã hội nớc ta phải theo
hớng XHCN là cần thiết, khách quan (nh đã phân tích ở trên) và cũng là nội
dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nớc mạnh, xã
hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của
việc phát triển KTTT định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta. Đảng và Nhà nớc
khuyến khích mọi ngời dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có
giàu thì nớc với mạnh, nhng dân giàu phải làm cho nớc mạnh, bảo đảm độc
lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành
phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nớc trong một số lĩnh vực, một số
khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nớc.
Đảng ta đã xác định, chính sách và kinh tế nhiều thành phần theo định h-
ớng XHCN có ý nghĩa chiến lợc lâu dài, có tính qui luật từ sản xuất nhỏ đi lên
CNXH, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế
phát triển lực lợng sản xuất. Hiện nay, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế
Nhà nớc đóng góp vào GDP vẫn luôn chiếm tỉ trọng chủ yếu. Kinh tế Nhà nớc
đã hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế đất nớc nói chung và của
thành phố nói riêng. Tuy nhiên, trong thực tế vận hành của cơ chế thị trờng,
khu vực kinh tế Nhà nớc cha chỉ sức dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát
triển theo mục tiêu của Đảng và Nhà nớc. Với hình thức tổ chức đa dạng và
phạm vi hoạt động rộng khắp các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nớc
tính chất chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nớc thể hiện qua bốn nội dung chủ
yếu sau đây: Thứ nhất, nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế và do đó, tạo
ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng, khả dĩ chi phối đợc giá cả thị trờng,
dẫn dắt giá cả thị trờng bằng chính chất lợng và giá cả của sản phẩm và dịch
vụ do mình cung cấp; thứ hai, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc
đẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển; thứ ba, điều chỉnh
các "lỗ hổng" trong quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ do cơ chế thị trờng
tạo ra các lĩnh vực kinh doanh cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhng
khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn khu vực t nhân đầu t nh đầu t vào cơ sở
hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trờng ; thứ t, kiểm soát
các hoạt động của thị trờng vốn và thị trờng tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn
định kinh tế vĩ mô của Nhà nớc (các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các
công cụ chín yếu của Nhà nớc trong quản lý kinh tế vĩ mô). Xác định nội
dung chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nớc theo các tổ chức nêu trên sẽ giúp
chúng ta định hớng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế Nhà nớc hiện có,
định hớng cho hoạt động đầu t của ngân hàng Nhà nớc và thiết lập các định
chế yểm trợ phát triển chung. Nền kinh tế hàng hoá, nền KTTT phải là một
10
nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhng nền KTTT mà
chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trờng hiện đại, cho nên còn có sự tham
gia bởi "bàn tay hữu hình" của Nhà nớc trong việc điều tiết, quản lý nền kinh
tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ đảm bảo sự định hớng phát triển của nền KTTT.
Sự quản lý, điều tiết, định hớng phát triển nền KTTT của Nhà nớc là thông
qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh
tế Nhà nớc. Kinh tế Nhà nớc phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực
then chốt có ý nghĩa là "đài chỉ huy" là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với
việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nớc cần coi trọng vai trò
của khu vực kinh tế t nhân và kinh tế hỗn hợp đặt chúng trong mối quan hệ
gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời biệt lập.
Thứ ba, Nhà nớc quản lý nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN ở
nớc ta là Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nớc của dân, do dân vì
dân thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trờng hiện
đại là Nhà nớc tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhng khác với Nhà nớc của
nhiều nền kinh tế thị trờng trên thế giới, Nhà nớc ta là "của dân, do dân và vì
dân", Nhà nớc công nông, Nhà nớc của đại đa số nhân dân lao động, đặt dới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh khả năng và
đang tự đổi mới để đảm bảo giữ vững định hớng XHCN trong việc phát triển
nền kinh tế thị trờng hiện đại ở nớc ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nớc là
một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của
mô hình kinh tế thị trờng ở nớc ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trờng khác
hiện có trên thế giới.
Thứ t, cơ chế vận hành của nền kinh tế đợc thực hiện thông qua cơ chế
thị trờng với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nớc. Mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Đợc thực hiện thông qua thị trờng các quy
luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng (quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh hợp tác, ) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá
trị quy định mục tiêu theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị
không ngừng tăng lên), quy định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác nhau khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế
trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ chính sách kinh
tế vĩ mô xùng với việc sử dụng các lợc lợng kinh tế của mình (kinh tế Nhà n-
ớc), Nhà nớc tác động quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết
nền kinh tế thị trờng. Nh vậy cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trờng
diều tiết nền kinh tế, Nhà nớc điều tiết thị trờng và mối quan hệ Nhà nớc - thị
trờng - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nớc với nền kinh tế thế
giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn ven lãnh thổ của quốc gia là
nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta. Quá trình phát triển
của kinh tế thị trờng đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã
11
hội hoá trên cơ sở của phát triển của kinh tế thị trờng là không có biên giới
quốc gia về phơng diện kinh tế. Một trong những đặc trng quan trọng của kinh
tế thị trờng hiện đại là việc mở rộng giao lu kinh tế với nớc ngoài, xung hớng
quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang
ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Tất cả các nớc trên thế giới, dù
muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh
tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi lại có cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và
vợt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải đợc thực hiện. Để phát hiện
trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện đại,Việt Nam không thể đóng cửa, khép
kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với
nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập đợc thực hiện trên ba nội dung chính
là: thơng mại; đầu t và chuyển giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên, sự mở của
hội nhập không có ý nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình mà phải trên cơ sở
phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh của
nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công
bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trờng ở
nớc ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ
phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay, phát triển trong công bằng đợc
hiểu là những chính sách phát triển đảm bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho
mọi từng lớp nhân dân đầu có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và đợc
hởng những thành quả tơng xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra,
là giảm khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân c giữa các
vùng, khác với nhiều nớc chung ta phát triển kinh tế thị trờng nhng chủ trơng
bảo đảm công bằng xã hội thực hiện thống nhất giữa tăng trởng kinh tế và
công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nớc ta.
Tuy nhiên, cùng cần nhấn mạnh rằng, sự đảm bảo công bằng trong nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn
về chất với chủ nghĩa bình quân, cân bằng thu nhập và ''chia đều sự nghèo
đói'' cho mọi ngời. Mức độ đảm bảo công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự
phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu quá nhấn
mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển,
ngân sách còn lo hẹp, thì chắc chắc sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh
tế - xã hội của đất nớc.
Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và t bản (vốn), thông qua
phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở n-
ớc ta, đợc thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần
theo vốn và tài sản, đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trờng t bản
chủ nghĩa với nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Trong mối quan hệ giữa lao động và t bản cuốn, giữa lao động sống và lao
12
động quá khứ (lao động đã đợc vật hoá) chủ nghĩa t bản coi trọng nhân tố t
bản, nhân tố lao động quá khứ đợc tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu
nhập, phân phối thành quả lao động, chủ nghĩa t bản nhấn mạnh đến nhân tố
t bản cuốn, hơn là nhân tố lao động (lao động sống) nhấn mạnh đến yếu tố
tích luỹ - đầu t hơn là yếu tố tiền lơng - nhu nhập của ngời lao động. Ngợc lại,
chủ nghĩa xã hội đặt con ngời ở vị trí trọng tâm của sự phát triển cho nê,
trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội
nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lơng - thu
nhập của ngời lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu
tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của ngời lao động, chúng ta
không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cờng tích luỹ
và đầu t (cả Nhà nớc và t nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa t bản
cuốn và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh đây đã trở
thành điều bình thờng. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số ngời giàu có
trong xã hội. Tăng số ngời có thu nhập cao đồng thời giảm số ngời có thu
nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo
vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính
sách điều tiết thu nhập của Nhà nớc trong quá trình phát triển nền kinh tế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trờng ảnh hởng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta phải là "quá trình thực hiện dân giàu, nớc mạnh, tiến lên hiện
đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cơng, xoá
bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi ngời có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc". Để đạt đợc điều đó ta phải có các biện pháp, giải pháp thực hiện
thích hợp.
3. Giải pháp phát triển KTTT định hớng XHCN ở Việt Nam.
3.1. Trớc hết cần đẩy mạnh quá trình da dạng hoá sở hữu tạo điều kiện
phát triển mạnh nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta.
Nh đã biết, cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng
là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất quy
định, vì vậy để phát triển kinh tế thị trờng, trớc hết phải đa dạng hoá các hình
thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nớc ta quá trình đa dạng hoá đợc thể
hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nh ghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII, đã chỉ ra. Đó là phát triển kinh tế
Nhà nớc, kinh tế hợp tác xã, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế t nhân và
kinh tế t bản Nhà nớc. Đến đại hội IX cso thêm thành phần kinh tế đầu t.
Đối với kinh tế đầu t. Đây là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nớc ta vai trò này đợc thể hiện ở chỗ nó chi phối các thành
phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác. Theo đặc điểm,
đặc tính của nó. Nhng trong thực tế nó cha đủ mạnh vậy cần phải làm gì ?
13
phải cũng cố lại hệ thống kinh tế Nhà nớc; thực hiện sắp xếp lại các doanh
nghiệp Nhà nớc, cải tiến quản lí nâng cao tính hiệu quả của hoạt động sản
xuất kinh doanh của chúng thông qua việc nghiên cứu và phát triển một
cách phù hợp với các hình thức tổ chức kinh doanh.
Đối với kinh tế hợp tác, cần thiết phải có sự tổng kết, rút kinh nghiệm về
bài học hợp tác xã kiểu cũ và xây dựng mô hình kinh tế hợp tác xã kiểu mới
đang đợc phát triển hiện nay, đổi mới nội dung và phơng thức quản lí đẩy
nhanh sự phát triển của thành phần kinh tế trong các lĩnh vực của nền kinh tế
để huy động nguồn lực vào phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng ở nớc
ta.
Đối với loại hình sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công, ng-
ời buôn bán nhỏ. Một mặt thông qua cơ chế , chính sách và hớng dẫn phát
triển của Nhà nớc khuyến khích sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Mặt khác cần tăng cờng công tác quản lí để xây dựng nề nếp sản xuất kinh
doanh theo quy định của luật pháp.
Đối với thành phần kinh tế t bản t nhân. Cần có chính sách khuyến khích
thành phần kinh tế này để các nhà t bản yên tâm và mạnh dạn đầu t vào nền
kinh tế , đặc biệt là lĩnh vực sản xuất hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu.
Đối với kinh tế t bản Nhà nớc. Nhà nớc cần có chính sách khuyến khích
thành phần kinh tế này phát triển kể cả với t bản Nhà nớc trong nớc và t bản
Nhà nớc với nớc ngoài muốn vậy phải có các chính sách và các hình thức đa
dạng để thu hút vốn đầu t t bản thông qua phát triển các khu công nghiệp tập
trung, các hình thức chế xuất, các hình thức liên doanh, liên kết
3.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lao động xã hội ở nớc ta.
Nh đã nói phân công lao động xã hội là của sản xuất hàng hoá, của phát
triển kinh tế thị trờng vì vậy quá trình phát triển kinh tế thị trờng ở nớc ta
đòi hỏi phải đẩy mạnh, phân công lại lao động xã hội.
Trong nớc phân công lao động xã hội trên tạm vì cả nớc ngay trong từng
vùng dựa vào các quy luật, tỉ lệ lao động Nông nghiệp giảm, lao động công
nghiệp tăng, tỉ lệ lao động có tăng và chiếm phần lớn trong lao động xã hội
tốc độ tăng trong ngành sản xuất trong vật chất nhanh hạn trong các sản xuất
vật chất.
Để nâng cao vai trò vị trí của Việt Nam trong hệ thống phân công lao
động khu vực và quốc tế đòi hỏi phát huy tinh thần tự lực, tự cờng và nhng lại
thế: vị trí địa lí; Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa đa dạng,
nguồn tài nguyên nhân văn phong phú.
Đồng thời đẩy mạnh CNH - HĐH trang bị kỹ thuật mới cho nền kinh tế
hàng hoá thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. KTT và CNH - HĐH
có mối quan hệ với nhau. Nền KTTT hiện đại của nớc ta phải dựa trên kỹ
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét