Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế": http://123doc.vn/document/1051078-gan-chat-viec-xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-voi-chu-dong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te.htm


đại mạnh mẽ lân sóng toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, đặc biệt là kinh tế.
Nh vậy, nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các tập
đoàn kinh doanh, các quốc gia có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối
trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát
triển. Đây là cơ sở đầu tiên của nền kinh tế toàn cầy thống nhất.
Chính nền công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ đã trở thành cơ sở
cho các quan hệ kinh tế toàn cầu. Trớc hết là quan hệ thơng mại, chi phí
vận tải liên lạc giảm đi thì khả năng buôn bán trao đổi giữa địa phơng quốc
gia, khu vực tăng lên. Cùng với nó quá trình phân công chuyên môn hoá
sản xuất diễn ra giữa các quốc gia, liên tục càng dễ dàng. Các linh kiện của
máy bay Boing, ô tô, máy tính đã không phải là sản phẩm của một bớc
mà của rất nhiều nơi trên thế giới.
Thơng mại toàn cầu, sản xuất chuyên môn hoá toàn cầu đã kéo theo
đồng vốn, tiền tệ, dịch vụ vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, lợng
buôn bán tiền tệ toàn cầu đã vợt xa con số 1500 tỷ USD. Trong đó, ta thấy
rằng, thơng mại điện tử xuất hiện và phát triển với tốc độ chóng mặt.
Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầy
đã ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, rào cản quốc gia. Các quốc
gia các khu vực, xích lại gần nhau hơn qua các tổ chức liên kết kinh tế.
mang bản chất chính trị nhiều hơn, những thập niên 40, xuất hiện khối liên
kết kinh tế giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật và Hội đồng tơng trợ kinh tế SEV giữa
các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay lại hình thành nên các tổ chức
nh APEC, AFTA, NAFTA, Đặc biệt quá trình quốc tế hoá về tài chính
đẩy mạnh nhanh chóng: hình thành nên Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Liên nớc kinh tế và tiền tệ Châu Âu gần 11 nớc thành
viên với đồng tiền chung là đồng EURO. Cùng với các tổ chức liên kết kinh
tế là sự ra đời các cam kết này đã, đang và sẽ công kích mạnh mẽ vào các
bức tờng thành quốc gia, rào cản quốc gia. Các nớc thành viên của tổ chức
thơng mại thế giới (WTO) cũng đã cam kết một lộ trịnh giảm bỏ hàng rào.
5
Ngay cả đối với Mỹ, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay gây sức ép thơng
mại đối với các nớc có vẻ nh đã mất hiệu lực, với dấu hiệu là Mỹ đã ký tối
huệ quốc (MFN) đối với Trung Quốc.
Ba là: những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều trở
nên bức xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu. Không có
khó khăn gì để có thể nhận ra các vấn đề nổi cộm hiện nay của kinh tế toàn
cầu. Môi trờng ngày càng bị phá hoại, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn
kiệt; dân số thế giới tăng nhanh đến mức nảy sinh nguy cơ bùng nổ dân số;
đồng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự điều tiết là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến các cuộc khủng hoàng liên tiếp Châu Âu, Châu Mỹ, Châu á
trong thời gian vừa qua; chiến tranh lạnh chấm dứt, đồng nghĩa với nó là kết
thúc sự đối đầu giữa các siêu cờng, mở ra thời kỳ hợp tác, hoà bình, phát
triển mới
Những vấn đề này đã trở thành tất yếu khách quan đẩy đến toàn cầu
hoá kinh tế với những đặc trng chủ yếu: Thứ nhất là, các hàng rào quan thuế
và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ theo các cam kết quốc tế đa
phơng và toàn cầu, tức là các biên giới quốc gia về thơng mại đầu t đang
tiên vong. Thứ hai là, các Công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự
do ở mọi quốc gia, trên các lĩnh vực cam kết, không phân biệt đối xử; thực
chất là sự xoá bỏ các biên giới về đầu t, dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế
khác.
Tuy nhiên, đến đây chúng ta lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi:
làm thế nào để giải quyết sự trói buộc của hệ thống tiền tệ quốc gia với
hàng trăng đồng tiền khác nhau, trao đổi theo các tỷ giá thả nổi bấp bênh?
Làm thế nào để dung hợp đợc với hệ thống luật pháp các quốc gia thủ cựu?
Có cấn đến "một bàn tay hữu hình toàn cầu" không? Và nh vậy toàn cầu
hoá kinh tế không thể tránh khỏi toàn cầu hoá về chính trị, an ninh, văn
hoá, xã hội ?
Có ngời đã cho rằng: toàn cầu hoá là con dao hai lỡi. Thực tế cũng đã
cho thấy khi diễn ra hội nghị, diễn đàn bàn về vấn đề đẩy mạnh toàn cầu
6
hoá thì bên cạnh sự ủng hộ của một bộ phận quần chung là thái độ kịch liệt
phản đối, biểu tình gay gắt của không ít ngời lao động khác. Tại sao vậy?
Quả thực, toàn cầu hoá không mang lại cơ hội phát triển cho tất cả quốc
gia, tất cả ngời lao động trên thế giới. Toàn cầu hoá không hẳn là một tơng
lai rực sáng không phải là một thiên đờng cho các nền kinh tế mà toàn cầu
hoá là lò lửa, là một quá trình thử thách, đấu tranh sinh tồn. Mỗi mặt tích
cực mà nó mang lại luôn đi với mặt hạn chế nảy sinh từ đó.
Toàn cầu hoá đa ra một thị trờng tiêu thụ mở rộng cho hàng hoá dịch
vụ. Thị trờng không hạn chế một nớc, một khu vực, hay một châu lục nữa
mà đã là thị trờng toàn cầu. Lúc này không ai khác chính bản thân sản
phẩm quyết định sự tồn tại của nó. Mỗi hàng hoá và dịch vụ phải đứng trớc
một môi trờng cạnh tranh gay gắt. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ
chịu sức ép vô cùng lớn từ bên ngoài. Không nhìn đâu xa, Việt Nam là một
ví dụ phù hợp cho vấn đề này. Quả thực, hàng hoá Việt Nam ngày nay đã
có mặt nhiều nơi trên thế giới và ban đầu đã gây uy tín không nhỏ thị trờng
nớc ngoài ở Việt Nam không chỉ là gạo, cà phê, thuỷ hải sản mà còn là
sản phẩm may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ không ít các Công ty TNHH
t nhân Việt Nam có nhiều chi nhánh ở nớc ngoài. Đây là dấu hiệu của khả
năng cạnh tranh lành mạnh của hàng hoá, dịch vụ nớc ta. Bên cạnh đó, thị
trờng Việt Nam đã đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hàng hoá mang
nhãn hiệu của các nớc khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Việt
Nam đang phải cạnh tranh với những u thế của ngời bạn láng giềng "khổng
lồ", đó là: giá rẻ, mẫu mã đẹp, phong phú đa dạng và với cả tâm lý "thích
dùng đồ ngoại" của ngời dân nớc ta. Với những khó khăn đang phải đối mặt
liệu các doanh nghiệp Việt Nam có đứng bên bờ "phá sản" hay không?
Một tác động tích cực của toàn cầu hoá mà không thể không nhắc
đến. Có thể nói đây là lợi ích hiện diện rõ ràng nhất đối với các nớc đang
phát triển và chậm phát triển. Đó là dòng chuyển vốn, công nghệ, kỹ thuật,
phơng pháp quản lý tiên tiến từ các nớc phát triển. Cơ hội này mở ra khả
năng cho các nớc nhận rút ngắn khoảng cách về thời gian và tiết kiệm tiền
7
bạc cho giai đoạn từ nghiên cứu cho đến khi triển khai, ứng dụng. Đây
cũng là lợi thế cho các nớc đang phát triển có điều kiện đi tắt, đơn đầu mọi
phơng tiện. Nhng cũng chính dòng chảy vốn, công nghệ, kinh tế, phơng
pháp quản lý tiên tiến này tạo ra một thế lực cạnh tranh đối với các nền kinh
tế quốc gia trì trệ, kém hiệu quả. Trong một giới hạn nào đó, dòng di
chuyển này là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp Nhà nớc vào tình trạng
phá sản, đi kèm là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nảy sinh hàng loạt vấn đề cho
xã hội Chính phủ cần giải quyết.
Một biểu hiện của toàn cầu hoá hiện nay là hình thành các khối liên
kết kinh tế cùng với cam kết, thoả thuận nhằm dỡ bỏ dần hàng rào thuế
quan. Đây là điều kiện quá trình thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không
phân biệt đối xử trong kinh tế trong các quan hệ mua bán và giao lu quốc
tế. Không những thế các nớc chậm phát triển đợc hởng u đãi đặc biệt, chế
độ tối huệ quốc, đợc cung cấp thông tin tự do mậu dịch, liên minh thuế
quan, đợc bảo đảm các quyền thông qua các tổ chức quám sát, giám định
quốc tế. Chính vì vậy, các nớc chậm phát triển có điều kiện cải thiện quốc
tế hoá không, liệu các chính sách tài chính có bắt kịp yêu cầu của xu thế
thời đại? Các cuộc khủng hoảng Đông Nam á, Brazin, Nga, trong những
năm 1997 - 1998 vẫn còn là những bài học sâu sắc cảnh báo cho các nớc có
tình hình tơng tự.
Điểm cuối cùng nh phần tất yếu của xu thế toàn cầu hoá đã trình bày,
đó là các vấn đề mang tính toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự
mình giải quyết đơn lẻ. Xu thế toàn cầu hoá tạo nền sự liên kết, hợp tác
giữa các quốc gia để cùng có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống lại sự
phân biệt đối xử sự đan xen phụ thộc lẫn nhau có còn có tác động hai mặt,
các nền kinh tế sẽ nhạy cảm hơn với các biến động quốc tế, nhng đồng thời
những rủi ro có tính chất cá biệt cũng đợc phân tán. Do đó các nớc đang
phát triển có thể đạt đợc sự ổn định tơng đối vốn hết sức cần thiết.
Trong thơng mại và giải quyết tranh chấp dựa trên những định chế
kinh tế tài chính bình đẳng. Đây là điều kiện để các nớc chậm phát triển
8
phát huy tối đa lợi thế của mình. Tuy nhiên nền kinh tế toàn cầu hoá sẽ phụ
thuộc ngày càng nhiều vào các tổ chức quốc tế và khu vực: các hiệp định đa
phơng, Công ty xuyên quốc gia, liên minh kinh tế, tài chính mà trong một
chừng mực nhất định nằm ngoài tầm kiểm soát của các Chính phủ. Nh
vậy, mặt khác, một mặt trái của nền kinh tế tài chính là sự suy giảm bản sắc
dân tộc, chủ quyền kinh tế song lại gia tăng sức ép kinh tế, chính trị. Sự hạn
chế về khả năng kiểm soát của các cổ phần còn biểu hiện ở tình trạng tội
phạm xuyên quốc gia, việc truyền bá nền văn hoá phi nhân bản
Toàn cầu hoá là con dao hai lỡi, nhng là xu thế tất yếu khách quan
mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy việc sử
dụng nó nh thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất là cả một nghệ thuật tinh
xảo.
2. Những đặc trng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta biết rằng bằng CNTB đã tạo ra sự phát triển của sản xuất
mà cha nền văn minh nào trớc đó đạt đợc. Cùng với sự phát triển của
CNTB, các cuộc chiến tranh giành giật thị trờng cũng không ngừng bùng
nổ. Chính qua các cuộc chiến tranh này các quốc gia t bản Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Pháp và đặc biệt là Anh từ thế kỷ XVIII đã triển khai một sức
mạnh kinh tế, hàng hải quân sự bao chùm thế giới nh vậy có thể nói thời đại
quốc tế hóa dù mở ra và đợc triển khai trong vũ lực, bóc lột đối với các
vùng thuộc địa.
Vào thế kỷ thứ XI đế quốc Anh có sự phát triển mạnh, khống chế gần
nh toàn bộ thế giới cho đến thế kỷ XX nớc Anh kiểm soát các đờng giao
thông hàng hải quốc tế và khống chế nhiều vùng thuộc địa với 1/5 diện tích
trái đất, 428 triệu dân. Sự hội nhập của các thuộc địa vào thị trờng thế giới
đã đa đến sự biến động luồng di dân, thúc đẩy gia tăng dân số và giao lu
kinh tế. Hoạt động thơng mại phát triển mạnh mẽ, mậu dịch giữa các nớc
mà trung tâm đặt tại Luân Đôn đã trở thành một hệ thống thống nhất sau
khi các quốc gia Châu Âu thừa nhận chế độ bản vị vàng.
9
Từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay quá trình quốc tế hóa đã trải qua ba
thời kỳ hay ba làn sóng.
Làn sóng đầu tiên diễn ra vào khoảng những 50 năm trớc chiến tranh.
Trong thời kỳ này sự trao đổi quốc tế và liên lục địa đã phát triển nhanh hơn
cả sự sản xuất trên toàn thế giới. Những dòng tài chính tăng lên nhanh hơn
nhiều trên quy thế giới. So với sự tăng trởng của việc trao đổi và sản xuất
trên toàn thế giới.
Làn sóng thứ hai của quốc tế hóa diễn ra vào những năm 50, 60, 70
của thế kỷ tức là thời kỳ có sự giảm bớt quan trong của các rào cản kinh tế.
Nhất là trong những nền kinh tế phát triển.
Làn sóng thứ ba vào cuối những năm 80 trở đi và lúc này khái niệm
về êôị nhập quốc tế đã trở nên quen thuộc. ở giai đoạn này ngời ta thấy có
sự co hẹp rõ rệt các hàng rào thơng mại. Sự tăng trởng mạnh mẽ về tài chính
và dân s quốc tế trên bình diện không cân bằng giữa nội bộ các nớc và các
nớc khác nhau.
Để thấy rõ sự tăng trởng của Mậu dịch quốc tế còn nhanh hơn cả sự
tăng trởng kinh tế. Ta hãy khảo sát những số liệu sau.
Trong thời gian 1900 - 1947 thơng mại thế giới tăng cha đều hai lần
thì từ sau chiến tranh thế giới II đến 1990 tăng 50 lần. Có nghĩa là tăng gấp
3 lần tốc độ tăng GDP thế giới. Năm 1950 giá trị thơng mại chiếm 7% GDP
thế giới thì nay đã là 23%.
10
Tốc độ tăng trởng Kinh tế hàng năm và mức thay đổi khối lợng
mậu dịch thế giới.
Các năm Mức tăng mậu dịch thế giới Mức tăng trởng kinh tế thế giới
1981 - 1990
TB trong cả thời kỳ
4,7 3,4
1991 4,6 1,8
1992 4,7 2,5
1993 3,9 2,7
1994 9,1 4,0
1995 9,4 3,8
1996 6,8 4,2
1997 9,9 4,2
1998 3,6 2,5
1999 4,3 3,0
2000 6,2 3,5
Nguồn: World Economic Outlook
Thứ hai trong làn sóng thứ ba có sự gia tăng mạnh mẽ quá trình tự do
hóa, toàn cầu hóa thị trờng tài chính.
Tự do hóa thị trờng tài chính là một quá trình nhng không phải quá
trình phát triển theo đờng thẳng mà là quá trình có những đợt phát triển
tăng vọt và những bớc thang lùi. Sự quốc tế hóa hay hội nhập thị trờng tài
chính phát triển nổi bật từ cuối thế kỷ XIX khoảng từ năm 1980 đến năm
1914. Sau đó có giai đoạn nhảy vọt chính, đặc biệt vào thời kỳ giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới.
Thứ ba cùng với sự gia tăng toàn cầu hóa thị trờng tài chính là việc
tập trung ngày càng lớn nguồn vốn vào các Công ty hàng đầu thông qua làn
sóng sát nhập với qui mô lớn và cờng độ cao cha từng có.
Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia là nguyên
nhân đẩy mạnh xu hớng hội nhập quốc tế nh trên. Đồng thời sự gia tăng, tập
trung mạnh tài chính ngày càng lớn vào các Công ty đầu sỏ trong mọi lĩnh
vực là một điểm đáng chú ý của làn sóng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay.
Các Công ty trong nền kinh tế thị trờng phát triển gắn liền với quá
trình tích tụ và tập trung t bản. Trong những làn sóng trớc đây của quốc tế
hóa không phải không có sự gia tăng tích tụ và tập trung t bản. Song từ
những năm 80 trở lại đây, nhất là những năm 90 quá trình diễn ra khá đặc
11
trng, nhiều chuyên gia kinh tế xem nh là những cơn sốt sát nhập hay hội
chứng sát nhập.
Thứ t là thị trờng lao động quốc tế đợc mở rộng do nhiều nớc chuyển
sang xây dựng nền kinh tế thị trờng, thực hiện mở cửa kêu gọi đầu t nớc
ngoài đã mở rộng dung lợng thị trờng lao động quốc tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế trớc đây thờng gắn liền với dòng di c
lớn của đội quân lao động. Chẳng hạn vào cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ
XX có sự di c khá cao về lao động trong nền kinh tế thế giới. Tính ra có
khoảng 40 triệu ngời Châu Âu chuyển tới Bắc Mỹ. Hàng triệu ngời từ các
vùng ôn hòa tới Nam bán cầu. Với làn sóng thứ ba này kinh tế thế toàn cầu
ngày càng trở nên một hệ thống gắn bó chặt chẽ. Mỗi bộ phận của nó đều
phụ thuộc vào tổng thể và ngợc lại, cái tổng thể chi phối cái bộ phận trong
thời kỳ này nhiều dịch chế toàn cầu và khu vực xuất hiện. Thuật ngữ hội
nhập kinh tế quốc tế xuất hiện, sử dụng phổ biến thay thế cho quốc tế hóa.
Nó phát ảnh bớc phát triển cao hơn của quốc tế hóa.
2. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay mọi hoạt động
kinh tế đang đợc tự do hóa.
Trong giai đoạn quốc tế hóa trớc đây. Việc hội nhập vào nền kinh tế
quốc tế, mà thực chất là sự bành trờng của các hoạt động kinh tế vợt ra
khuôn khổ của biên giới quốc gia không gắn với việc tự do hóa các hoạt
động kinh tế. Đôi khi cùng với quá trình bành chớng của hoạt động kinh tế
lại có sự gia tăng của các biện pháp bảo hộ thị trờng.
Thực tế sự phát triển các quốc gia TB phát triển cho thấy rõ điều đó
Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II đã nhanh chóng khôi phục kinh tế,
bành chớng thế lực kinh tế ra bên ngoài nhanh và mạnh. Tuy vậy nền kinh
tế Nhật trong thập kỷ 60, 70 là một trong những nền kinh tế có tính bảo hộ
cao nhất thế giới TBCN. Trên thực tế cho mãi tới nửa sau thập kỷ 70 Nhật
mới hoàn thành quá trình tự do hóa thị trờng vốn, và cũng mới gần đây
Nhật mới mở cửa thị trờng gạo. Vào những nửa năm 1974 tỷ lệ nhập khẩu
12
hàng chế tạo so với GDP của Nhật là 2%. So với mức 15% của các nớc TB
phát triển khác.
Sự tách rời giữa tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của
giai đoạn quốc tế hóa trớc đây. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế
gắn liền với việc tự do hóa kinh tế các thể chế, thị trờng kinh tế Không thể
hội nhập kinh tế quốc tế nếu không tự do hóa kinh tế. Đây là đặc điểm mới
của xu thế quốc tế hóa hiện nay.
Đơng nhiên hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ nó gắn liền với
mức độ của tự do hóa. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hội nhập kinh tế càng
sâu thì tự do hóa càng mạnh. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và
tự do hóa chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế.
Với cơ chế thị trờng thống nhất các quốc gia tham gia vào phân công lao
động quốc tế làm cho các nền kinh tế có sự gắn kết với nhau. Mỗi nền kinh
tế là một bộ phận của chính thể toàn cầu. Chỉ có hội nhập mới là cách thức
để phát huy những thế mạnh những lợithês so sánh trong phân công lao
động quốc tế. Bổ sung những điểm yếu của các nền kinh tế có thể.
Nh vậy vấn đề còn lại chỉ là ở chỗ xác định mức độ tiến trình hội
nhập và tự do hóa nh thế nào cho phù hợp với trình độ nền kinh tế. Đây là
điều cần tính toán, cần nhắc với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan nhng đang chịu tác
động lớn từ Mỹ. Và một số nớc TB phát triển. Hiển nhiên là quá trình toàn
cầu hóa gắn liền với sự phát triển của CNTB. CNTB lợi dụng những thành
tựu khoa học - kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Và
chínhtrong sự phát triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc
quyền cạnh tranh với nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên manh
độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế.
Chúng cấu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Nh vậy khó
có thể thay thế ngay thời kỳ đầu quá trình quốc tế hóa đã chịu sự chi phối
của CNTB.
13
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét